Cập nhật lúc 21h46, ngày 17/11/2011
NGUYỄN KHẮC BẢO
Hội viên Hội Ngôn ngữ học Việt nam
I. Xuất xứ của "Ngứa ghẻ hờn ghen"
Trong các bản Truyện Kiều Quốc ngữ thông dụng hiện nay, các nhà biên khảo đương đại đều chép lời nói của Hoạn Thư trình bày với Hoạn bà mọi suy tính của ả ta "Từ nghe vườn mới thêm hoa" là:
"Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ hờn ghen
Xấu chàng mà có ai khen chi mình…"
(câu 1609 - 1610).
Học giả Đào Duy Anh trong Từ điển Truyện Kiều đã giảng: "Ngứa ghẻ hờn ghen: ý nói rằng hờn ghen cũng khó chịu đến cuồng lên như ngứa ghẻ"(1). Nhưng có lẽ Cụ cũng chưa hoàn toàn nhất trí với cụm từ chỉ hai hành động ấy lại có mối liên quan tương hỗ tới nhau trong hoàn cảnh tế nhị này, nên đã cẩn thận chú thích tường tận tiếp theo là: "Ngứa ghẻ hờn ghen: Theo Kiều Oánh Mậu và Bùi Kỷ. Các bản Nôm từ Liễu Văn đường phần nhiều chép là: Giận ghẻ hờn ghen"(2). Theo vậy thì các bản Truyện Kiều cả Nôm và Quốc ngữ đều đã thống nhất hai từ hờn ghen. Sự khác nhau chỉ là giận ghẻ hay ngứa ghẻ mà thôi!
Đọc lại Truyện Kiều, chúng ta thấy có một câu cấu trúc tương tự (câu 857), trong đó Thúy Kiều bộc bạch suy nghĩ giận duyên tủi phận khi biết mình mắc lừa giống hôi tanh Mã Giám Sinh. Cụm từ trên có thế tiểu đối rất hoàn chỉnh: Giận duyên/ tủi phận, giận/tủi, duyên/phận. Còn nếu cho Hoạn Thư cũng lại giận ghẻ hờn ghen thì cụm từ này thiếu tính lôgic. Vì hờn ghen là một hành động của người phụ nữ còn có khi thể tất được, song giận ghẻ sẽ là một ý nghĩ không hợp lý, chẳng ai lại đi giận con cái ghẻ khi lỡ bị ghẻ, cụm từ trên thế tiểu đối lại không chỉnh vì giận/hờn là đối chuẩn; chứ ghẻ và ghen, giận ghẻ và hờn ghen làm sao đối với nhau được.
Người có "công lao" trình làng cụm từ ngứa ghẻ chính là Kiều Oánh Mậu, Tiên sinh đã tiếp nhận được bản Kinh của Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ mang từ Huế ra tặng "liền mừng cuống lên, nhân gia công kiểm duyệt tinh tường rồi cho khắc in"(3) thành bản Đoạn trường tân thanh năm 1902. Sau đó cũng vì không nhất trí với việc gán cho Hoạn Thư ý nghĩ giận ghẻ, nên các nhà biên khảo Truyện Kiều trong suốt cả thế kỷ XX như Phạm Kim Chi (1917), Nguyễn Văn Vĩnh (1923), Bùi Khánh Diễn (1926), Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim (1927), Hồ Đắc Hàm (1929), Huyền Mặc đạo nhân (1930), Tản Đà (1941)… Nguyễn Văn Hoàn (1965), Nguyễn Thạch Giang (1972), Đào Duy Anh (1974), Nguyễn Quảng Tuân (1995), Vũ Văn Kính (1998)… chắc đều tin theo sự khảo đính của vị tiền bối Kiều Oánh Mậu nên cứ mặc nhiên chép theo là: "Ngứa ghẻ hờn ghen" và in truyền mãi đến tận thế kỷ XXI này. Nhiều khi cụm từ trên còn được vận dụng như một thành ngữ (?) trong văn chương và đời sống hàng ngày.
II. Các dị bản chép khác với "ngứa ghẻ hờn ghen"
Chúng tôi đã tìm đọc hơn 30 Truyện Kiều chữ Nôm thì thấy ngoài bản Kiều Oánh Mậu 1902 ra chỉ có 03 bản chép tay của Chiêm Vân thị, bản R987 của TVQG và bản Kiều ở Thái Bình (có lẽ cũng thuộc loại bản Kinh) chép là: Ngứa ghẻ hờn ghen. Còn bản R2003 cũng của TVQG và bản do Cụ Giản Chi lưu giữ lại chữa thêm một chữ nữa thành ngứa ghẻ đòn ghen để lột tả sự quyết liệt, tương xứng nhau của ngứa ghẻ ngang ngửa với đòn ghen.
Không tán thành cách biên khảo có hành động ngứa ghẻ quá thô lậu trong áng thơ tuyệt diệu này, Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh trong bản Kiều do nhà Quan Văn đường in liền sau đó (1906) đã chữa lại là: Nghĩ rằng: Nhận lấy hờn ghen.
Đọc câu thơ mới cải sửa này nghe cũng còn khiên cưỡng, "như hình chưa thông". Sự trăn trở của các nhà biên khảo trên thể hiện cụm từ ngứa ghẻ hờn ghen vẫn chưa thực sự thuyết phục được các nhà Nho yêu thích và quan tâm đến Truyện Kiều.
Có một điều cần phải đặc biệt lưu ý là đại đa số các bản Kiều Nôm từ Liễu Văn đường 1866 và 1871, Nguyễn Hữu Lập 1870, Quan Văn đường, Thịnh Mỹ đường, Thuận Thành 1879, ấn Thư Hội 1896 đến các bản Liễu Văn đường Quảng tập, Phúc Văn đường, Quan Văn đường 1911, Phúc An hiệu… đều rất thống nhất chép là: 恨��mà cụ Đào đã đọc là: giận ghẻ. Trong hai bản Quốc ngữ của Nordemann xuất bản ở Huế và Hà Nội năm 1897 cũng chép theo lối chính tả hồi ấy là:
Nghĩ dằng: Dận ghẻ hờn ghen…
Trước đây khi khảo sát văn bản Truyện Kiều Nôm, chúng tôi đã thấy trong các bản Kiều Nôm của Duy Minh thị do Kim Bảo lâu in 1872 và Văn Nguyên đường và Bảo Hoa các in năm 1879, bản A.Michels in 1884 cùng bản chép tay mới sưu tầm ở Nghi Xuân - Hà Tĩnh cũng chép thống nhất là: Nghĩ rằng: 恨(疒+礼)hờn ghen
Do vậy ta thấy trong 6 chữ của câu thơ 1609, các nhà khắc ván in chữ Nôm đã thống nhất được 5 chữ, trong đó chữ thứ 3 dứt khoát phải là giận để đối với hờn chứ đổi là ngứa thì đối làm sao với hờn được. Vấn đề đặt ra là với chữ thứ 4 có hai cách viết: (�� nạch + kỷ) hoặc 疒礼(nạch + lễ) nên cần lưu tâm phiên âm sang Quốc ngữ thế nào cho đúng?
III. Cách đọc chữ
Theo sự tìm đọc của chúng tôi thì các Bảng tra chữ Nôm của Hồ Lê - Bùi Thanh Ba(4), Lạc Thiện Tăng Văn Hỷ(5), Vũ Văn Kính(6) chưa thu thập được chữ Nôm:疒礼(nạch + lễ) nói trên.
Riêng Linh mục Trần Văn Kiệm trong cuốn Giúp đọc Nôm và Hán - Việt(7), không rõ dựa vào cơ sở nào lại đọc cả hai chữ ��; 疒礼là: Ghẻ (tr.449). Việc dùng thanh phù (几kỷ) để gợi âm đọc ghẻ là điều dễ hiểu - vì ta đã có (技= kỹ) đọc thành ghẽ. Còn dùng thanh phù (礼= lễ) để gợi âm đọc ghẻ là chưa thỏa đáng. Trong cuốn Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của(8) đã dùng chữ Hán phồn thể (禮= lễ) để ghi âm Nôm: lẩy và lẫy (Tr.532).
Còn trong các cuốn Bảng tra chữ Nôm của Hồ Lê - Bùi Thanh Ba, Lạc Thiện, Vũ Văn Kính và Tự điển chữ Nôm của GS.TSKH. Nguyễn Quang Hồng chủ biên nói trên cũng lại dùng chữ (礼= lễ) ở dạng giản thể hoặc thêm nháy cá (礼?) để ghi âm Nôm: lẩy và lẫy.
Do vậy ta thấy chữ Nôm 疒礼(Nạch + lễ) có chữ Lễ là thanh phù gợi âm đọc là lẩy hoặc lẫy; còn bộ nạch (疒) làm nghĩa phù chỉ rõ âm này có nghĩa thuộc phạm trù tính nết hoặc liên quan đến sức khỏe, bệnh tật của con người.
Điều suy nghĩ trên càng trở nên đáng tin hơn khi chúng tôi tìm được bản Truyện Kiều Quốc ngữ của nhà bác học Trương Vĩnh Ký in từ 1875 (không rõ đã dựa vào bản Nôm nào - có thể là bản Duy Minh thị 1872 chăng?) và bản Quốc ngữ của A.Michels in 1884 đều chép là: Nghĩ rằng: Giận lẫy hờn ghen.
Rất tiếc là khi dùng bản của Trương Vĩnh Ký làm tài liệu căn cốt để xây dựng văn bản Truyện Kiều thì Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn trong phần khảo dị lại đọc nhầm thành: Nghĩ rằng: Giận lấy hờn ghen (9).
Còn bản của A.Michels tuy cũng có nhiều nhà khảo cứu ghi vào Danh mục sách tham khảo, song có lẽ cũng không để ý đến từ "giận lẫy" lạ lùng đó.
Điều đáng băn khoăn hơn nữa là do nhiều nhà phiên âm lớp trước đã trót phiên âm 恨疒礼 thành giận ghẻ, lại được Linh mục Trần Văn Kiệm đưa chữ 疒礼vào Từ điển đọc thành ghẻ, nên trong công trình Tư liệu Truyện Kiều - bản Duy Minh Thị 1872(10) mới công bố gần đây, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cũng lại phiên âm疒礼thành ghẻ (?!).
Sự sai lầm dây chuyền "dĩ ngoa truyền ngoa", người sau tin theo sự phiên âm của người đi trước cũng lại đã từng xảy ra. Khi Giáo sư Nguyễn Thạch Giang trong bản Truyện Kiều do mình khảo đính(3) đã lỡ phiên âm câu 2722 của bản Chu Mạnh Trinh là: Đoạn trường thơ phải đón mà trả ( = nhau) (Tr.311). Chữ (足túc + 堯nghiêu) theo Hồ Lê - Bùi Thanh Ba, Lạc Thiện, Vũ Văn Kính chỉ có một âm đọc duy nhất là: Theo sách của Trần Văn Kiệm xuất bản 1999 cũng in như vậy có lẽ là do Linh mục Trần Văn Kiệm đã quá tin vào cách phiên âm của các ông Nguyễn Thạch Giang và Nguyễn Quảng Tuân để đưa vào Từ điển một chữ Nôm phiên âm sai. Rất mong nhận được sự tham gia thẩm định của các bậc thức giả xem có nên tiếp tục phiên âm chữ là nhau nữa hay không?
Qua phần trình bày trên về chữ Nôm thứ 4 câu 1609 của tất cả các bản Kiều Nôm, chúng tôi thấy có thể suy đoán rằng các bản Kiều Nôm khắc in ở Hà Nội (gọi chung là bản Phường) đã theo một bản nguồn nào đó mà chữ Nôm viết thảo nên đã nhầm chữ lễ礼thµnh kû几v× tù d¹ng viÕt th¶o hai ch÷ nµy lµ kh¸ gièng nhau. Do vËy mµ (恨疒礼giận lẫy) đã thành (恨��giận ghẻ). Và chính bởi sự tối nghĩa của cụm từ giận ghẻ hờn ghen nên mới phát sinh ra các cách chữa thành: Ngứa ghẻ hờn ghen, ngứa ghẻ đòn ghen, nhận lấy hờn ghen, tạo ra sự biên khảo bất nhất về lời nói của Hoạn Thư, con người vốn vẫn được đánh giá là: "Nói điều ràng buộc thì tay cũng già".
IV. Nghĩa của giận lẫy - giận lẩy:
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (13) không thu thập các từ lẩy và giận lẩy có nét nghĩa phù hợp với hoàn cảnh mà câu thơ 1609 diễn tả. Nhưng lại có:
- Lẫy (động từ, phương ngữ) = dỗi. Ví dụ: Nói lẫy
- Giận lẫy (động từ, phương ngữ) = giận dỗi.
Song trong cuốn Tự vị An Nam La Tinh của Bá Đa Lộc Bỉ Nhu in năm 1772 - 1773 (14) (lúc đó Nguyễn Du còn là thiếu niên) ta vẫn đọc thấy các mục từ:
- Lẩy: cách cứng cỏi, cách dữ tợn, cách giận dữ.
- Giận lẩy: giận cách hung dữ.
- Lẫy: cãi lẫy, cãi cọ nhau (Tr.241).
Còn trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của in năm 1895(15) (giai đoạn này Truyện Kiều đang được in và phổ biến rầm rộ) cũng có các mục từ:
- Lẩy: kình gan, găy gắt. Ví dụ: làm lẩy, bỏ lẩy, nói lẩy, đánh lẩy.
- Lẫy: cãi lẫy, tiếng đôi chỉ nghĩa là cãi (nói là giận mà cãi cũng thông) (tr.532).
- Giận lẫy: giận mà bỏ lẩy không thèm ngó tới.
- Giận lẩy sẩy cùi: tiếng nói chơi rằng giận lẩy thì hụt đi, mất đi một phần nhờ (tr.368).
Đến Tự điển Việt Nam của Lê Văn Đức in năm 1970(16) vẫn còn ghi nhận có các mục từ:
- Lẩy: cách hờn giỗi có thiệt cho mình nhưng không cần, để lại gan.
Ví dụ: bỏ lẩy, đánh lẩy, giận lẩy, nói lẩy.
- Lẫy: (động từ) xem: lãy
- Lãy: nẩy lên và lật lại.
- Giận lẩy: (động từ): giận và hy sinh không thiết đến quyền lợi của mình. Ví dụ: Giận lẩy sẩy cùi.
- Giận lẩy sẩy cùi (tục ngữ): tỏ ý giận, không thèm nhận một vật hay một việc gì, đối phương cũng không năn nỉ, thành ra người giận phải mất vật hay việc gì (tr.562, 786 tập I, tr.147 tập III).
Cuốn Từ điển từ Việt cổ của Nguyễn Ngọc San - Đinh Văn Thiện(17) đã đồng nhất nghĩa của lẫy như lẩy. Hai tác giả trên không thu nhận mục từ lẩy nhưng trong mục từ lẫy thì lại ghi là:
- Lẫy: làm điều gì cho bõ giận.
Ví dụ: làm lẫy, bỏ lẫy, nói lẫy, đánh lẫy (theo Hùinh Tịnh Của) (tr.170).
Trong khi thực ra sách của cụ Hùinh Tịnh Của chỉ có các ví dụ là: Làm lẩy, bỏ lẩy, nói lẩy, đánh lẩy.
Có lẽ cách đọc lẫy = lẩy cũng là một cách đọc trại âm tương tự như: nhàn = nhạn, chửa = chưa trong các câu thơ văn học trung đại như:
Hầu mong nhắn cá gửi nhàn (Phương Hoa)
Cá nhàn hãy lánh ra ngoài cho xa (Phạm Thái)
Một lời nói chửa kịp thưa (Kiều)
Lạ tai nghe chửa biết đâu (Kiều)
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao (Kiều)
Qua việc thu thập của các Từ điển kể trên, ta có thể thấy rằng: giận lẩy, giận lẫy là một từ kép thông dụng trong các thế kỷ trước, hơn nữa "giận lẩy sẩy cùi" còn là một tục ngữ thường dùng trong đời sống.
Như vậy theo thiển nghĩ của chúng tôi câu thơ đang bàn có thể đọc theo hai âm điệu là:
Nghĩ rằng: giận lẩy hờn ghen
Hoặc:
Nghĩ rằng: giận lẫy hờn ghen
Câu thơ diễn tả suy tính của Hoạn Thư là: Nếu mình giận dỗi một cách cứng nhắc, hung dữ và hờn ghen gay gắt, cãi cọ nhau ầm ĩ, nghĩa là làm cả bốn việc: Giận, lẫy, hờn và ghen thì câu chuyện sẽ từ "bé xé ra to" tạo nên cảnh "xấu chàng hổ ai". Hậu quả nhỡn tiền là tự mình sẽ chuốc lấy tiếng cười của thiên hạ về sự ghen tuông lồng lộn quá đáng ấy. Vả lại về mặt thi pháp thì bốn từ này đã đối nhau rất chỉnh: Giận lẫy/hờn ghen, giận/hờn, lẫy/ghen phù hợp với văn phong trác tuyệt của thi hào như đã dùng với trường hợp "giận duyên tủi phận" nêu trên.
Nghĩ lại lúc Hoạn Thư bắt quả tang Thúc Sinh lẻn sang Quan Âm Các tình tự với Thúy Kiều, ả ta cũng nén lửa Hỏa Diệm Sơn lại mà mời chàng Thúc:
"Thiền trà cạn nước Hồng Mai
Thong dong nối gót thư trai cùng về".
Nhưng thực chất là "em đưa chàng về dinh" xong mới bắt Thúc Sinh nằm ra mà đánh, như kiểu Giang Thành xử lý chồng là Cao Sinh lẻn đi bồ bịch ở quán trà Hồng Mai trong Giang Thành truyện chép ở sách Liêu Trai vậy (18).
Do vậy chúng tôi đề nghị không nên "ngảnh mặt làm thinh" để cho "con cái ghẻ" bò vào Truyện Kiều như lâu nay các bản Truyện Kiều Quốc ngữ vẫn in. Mà nên loại bỏ cụm từ "ngứa ghẻ hờn ghen", chỉnh lại ngôn từ của Hoạn Thư theo đúng các bản Kiều Nôm cổ nhất là:
Nghĩ rằng: giận lẫy hờn ghen,
Xấu chàng mà có ai khen chi mình
Nhân đó cũng nên chỉnh lại các chữ Nôm phiên âm chưa chuẩn (疒礼ghẻ); ( = nhau) như trong cuốn Giúp đọc Nôm và Hán - Việt đã lỡ thu thập tại trang 449 và 674 của Nxb. Thuận Hóa in năm 1999.
Chú thích và sách tham khảo
1-2) Đào Duy Anh: Từ điển Truyện Kiều, Nxb. KHXH, H. 1974, tr.289.
3) Lời tựa Đoạn trường tân thanh của Đào Nguyên Phổ, trích theo: Nguyễn Thạch Giang, Truyện Kiều, Nxb. ĐH & THCN, H 1973, tr. 494.
4) Hồ Lê: Bùi Thanh Ba: Bảng tra chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 1976.
5) Lạc Thiện Tăng Văn Hỷ: Sách tra chữ Nôm thường dùng, Hội Ngôn ngữ học Tp. Hồ Chí Minh xuất bản 1991.
6) Vũ Văn Kính:
- Bảng tra chữ Nôm TK 17, Nxb. Tp. HCM, 1993.
- Bảng tra chữ Nôm miền Nam, Hội NNH Tp.HCM, 1994.
- Bảng tra chữ Nôm sau TK 17, Hội NNH Tp.HCM 1994.
7) linh mục trần văn kiệm: giúp đọc nôm và hán việt, nxb. thuận hóa, 1999.
8-15) huình tịnh của: đại nam quấc âm tự vị, sài gòn 1895.
9) nguyễn văn hoàn: truyện kiều, h; nxb. văn học, 1965, tr.266.
10) nguyễn tài cẩn: tư liệu truyện kiều bản duy minh thị 1872, nxb. đhqg, h. 2002, tr.224.
11) nguyễn khắc bảo: thận trọng để đừng viết nhịu (góp ý với ông nguyễn quảng tuân), tạp chí ngôn ngữ & đời sống số 6 - 2002, tr.17.
12) nguyễn quảng tuân: phê bình người tự xét lại mình (trả lời ông nguyễn khắc bảo), tạp chí ngôn ngữ & đời sống số 9 - 2002, tr.13.
13) hoàng phê chủ biên, từ điển tiếng việt, nxb. đà nẵng và tt từ điển học xuất bản 1997, tr.383, 536.
14) bá đa lộc bỉ nhu, tự vị an nam la tinh, hồng nhuệ nguyễn khắc xuyên dịch và giới thiệu, nxb. trẻ, 1999, tr.241.
16) lê văn đức: tự điển việt nam, sài gòn nhà sách khai trí xuất bản 1970.
17) nguyễn ngọc san - đinh văn thiện, từ điển từ việt cổ, h; nxb. vh - tt, 2001.
18) chiêm vân thị: thúy kiều truyện tường chú - lê mạnh liêu phiên dịch sài gòn 1974, quyển hạ, tr.119.
- Nguyễn Khắc Bảo: vị đắng của trà hồng mai, tạp chí ngôn ngữ & đời sống số 1/1999 tr.21.
STT | Bản Kiều Nôm | Nội dung khảo | Quốc ngữ | Nội dung khảo | ||
1 | Liễu Văn đường | 1886 | 恨�� | Trương Vĩnh Ký | 1875 | Giận lẫy |
2 | N. Hữu Lập | 1870 | 恨�� | Michels | 1884 | Giận lẫy |
3 | Liễu Văn đường | 1871 | 恨�� | Nordem ann | 1897 | Dận ghẻ |
4 | Duy Minh thị | 1872 | 恨疒礼 | Ph. Kim Chi | 1917 | Ngứa ghẻ |
5 | Q. Văn đường | 1879 | 恨�� | Ng. Văn Vĩnh | 1923 | Ngứa ghẻ |
6 | Thuận Thành | 1879 | 恨�� | Bùi K. Diễn | 1926 | Ngứa ghẻ |
7 | Thịnh Mỹ đường | 1879 | 恨�� | B. Kỷ - TT Kim | 1927 | Ngứa ghẻ |
8 | Tiêu Tương | Tự Đức | 恨�� | Hồ Đắc Hàm | 1929 | Ngứa ghẻ |
9 | A. Michels | 1884 | 恨疒礼 | Huyền Mặc | 1930 | Ngứa ghẻ |
10 | Tụ Hiền đường | 1886 | 恨�� | Ngô Tử Cống | 1931 | Ngứa ghẻ |
11 | Quế Võ chép tay | 1894 | không có | Ng. Can Mộng | 1936 | Ngứa ghẻ |
12 | Ấn Thư Hội | 1896 | 恨�� | Tản Đà | 1941 | Ngứa ghẻ |
13 | VNb.60 in | ? | 恨�� | B. Kỷ - TT Kim | 1950 | Ngứa ghẻ |
14 | Kiều Oánh Mậu | 1902 | ���� | Trung Chính | 1951 | Ngứa ghẻ |
15 | Thái Bình chép tay | ? | ���� | Trần Ngọc | 1952 | Ngứa ghẻ |
16 | Chu Mạnh Trinh | 1906 | 認�� | Lê Văn Hòe | 1953 | Ngứa ghẻ |
17 | Q. Văn đường | 1911 | 恨�� | Bùi Kỷ | 1957 | Ngứa ghẻ |
18 | Liễu Văn Q.Tập | 1916 | 恨�� | Đỗ Nam Cư Sĩ | ? | Ngứa ghẻ |
19 | Phúc Văn đường | 1918 | 恨�� | Ng. Việt Hoài | 1957 | Ngứa ghẻ |
20 | Thịnh Mỹ đường | 1919 | 恨�� | Ng. Văn Hoàn | 1965 | Ngứa ghẻ |
21 | Liễu Văn Q.Tập | 1919 | 恨�� | Ng. Thạch Giang | 1972 | Ngứa ghẻ |
22 | Hoa Kiều Chợ Lớn | 1920 | 魚�� | Chiêm Vân Thị | ? | Ngứa ghẻ |
23 | Quảng Thịnh | 1922 | 認�� | Đào Duy Anh | 1974 | Ngứa ghẻ |
24 | Liễu Văn Q.Tập | 1924 | 恨�� | Đào Duy Anh | 1979 | Ngứa ghẻ |
25 | Phúc Văn đường | 1926 | 恨�� | Đặng Thanh Lê | 1984 | Ngứa ghẻ |
26 | Phúc Văn đường | 1932 | 恨�� | Phan Ngọc | 1989 | Ngứa ghẻ |
Phụ lục bài: Hoạn Thư không "ngứa ghẻ" mà "giận lẫy"
câu số 1609 nghĩ rằng: giận lẫy hờn ghen
27 | Phúc An Hiệu | 1933 | 恨�� | N. Quảng Tuân | 1995 | Ngứa ghẻ |
28 | Chiêm Vân Thị | chép in | ���� | Vũ Văn Kính | 1998 | Ngứa ghẻ |
29 | Kim Bắc in | ? | 恨�� | Ng. Tài Cẩn | 2002 | Giận ghẻ |
30 | R2003 | chép tay | ���� 扌屯 | Ng. Khắc Bảo | 2004 | Giận lẫy |
31 | R.987 | chép tay | ��疒己 | Thế Anh | 2005 | Giận ghẻ |
32 | Bản Diễn Châu | chép tay | 恨�� | Đào Thái Tôn | 2006 | Giận ghẻ |
33 | Bản Giản Chi | chép tay | ��虫疒礼 扌屯 | Trần Nho Thìn | 2007 | Giận ghẻ |
34 | Bản Nghi Xuân | chép tay | 恨疒礼 | Ng. Tài Cẩn | 2008 | Giận ghẻ |
(Thông báo Hán Nôm học 2009, tr.136-147)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét