by An Chi on Friday, June 15, 2012 at 11:01am ·
Bạn đọc : Trong bài “Từ Việt Hán và từ Hoa Hán” (tunguyenhoc.blogspot.com, 28-5- 2012), tác giả Cao Tự Thanh có viết: “Những biến động lịch sử ở Việt Nam còn làm hình thành trong mảng từ Việt Hán những biệt sắc địa phương khác nhau, chẳng hạn người miền Bắc đọc chữ Hán theo Đường âm thế kỷ IX, X thì nói là Hoàng, Phúc, Vũ, Diến Điện còn người miền Nam từ Quảng Nam trở vào chịu ảnh hưởng Minh âm, Thanh âm theo chân các di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam qua Đàng Trong tỵ nạn chính trị thế kỷ XVII, XVIII thì nói là Huỳnh, Phước, Võ, Miến Điện.” Xin cho hỏi: Đường âm, Minh âm, Thanh âm ở đây là gì?
(Nguyễn Tác Lạc, TP Vũng Tàu).
An Chi : Về vấn đề mà bạn dẫn ra để hỏi, tác giả Cao Tự Thanh đã chính thức nêu lên cách đây trên 10 năm trong bài “Những yếu tố Hoa trong phương ngữ Nam Bộ” (Tạp chí Hán Nôm số 2(43) năm 2000). Bài trên tunguyenhoc.blogspot.com có lẽ cũng là một bài được “nghiền ngẫm” trong nhiều năm vì ở cuối thấy ghi “1999 – 2007”. Ngoài ra, còn phải nhắc đến bài “Hoàng – Huỳnh, Phúc – Phước, Vũ – Võ… với vấn đề «kiêng húy»”, cũng của Cao Tự Thanh, trong đó tác giả đã hùng hồn phê phán những người khác nhưng phần cứ liệu đưa ra để chứng minh cho luận điểm của riêng mình thì hầu như … không có gì.
Chuyên gia họ Cao tỏ ra rất tâm đắc với các khái niệm “Đường âm”, “Minh âm”, “Thanh âm”, nhất là về hai khái niệm sau nhưng có vẻ như cách hiểu của ông thì lại mơ hồ. Trước nhất, xin nhấn mạnh rằng “Đường âm”, “Minh âm”, “Thanh âm” là những cấu trúc gốc Hán “nguyên xi” (đặt theo cú pháp “ngược” của tiếng Hán) chứ nếu theo đúng cú pháp tiếng Việt thì phải là âm (đời) Đường, âm (đời) Minh, âm (đời) Thanh. Trong tiếng Hán thì danh ngữ Đường âm 唐音 có hai nghĩa : 1.- tiếng Hán đời Đường, như trong câu thơ “ Đường âm Phạn âm tương tạp thời” 唐音梵音相雜时 của Tề Kỷ (863 – 937), là một nhà sư sống vào chính đời Đường ; 2.- thơ (đời) Đường. Trong tiếng Nhật, thì Đường âm là cái mà người Nhật gọi là Tō on, tức âm của những chữ Hán mà các nhà sư và nhà buôn người Nhật đem từ Tàu về Nhật vào đời nhà Tống, để phân biệt với Kan on (Hán âm) và Go on (Ngô âm), cũng là hai cách đọc khác nữa của người Nhật đối với chữ Hán vào những thời kỳ khác. Còn cái mà chính chuyên gia họ Cao muốn chỉ bằng hai tiếng “Đường âm” ở đây thì chẳng qua chỉ đơn giản là âm Hán Việt của chữ Hán, mà Nguyễn Tài Cẩn đã minh định như sau:
“ Cách đọc Hán-Việt là một cách đọc vốn bắt nguồn từ hệ thông ngữ âm tiếng Hán đời Đường, mà cụ thể là Đường âm dạy ở Giao Châu vào giai đoạn bao gồm hai thế kỷ VIII, IX.” (Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, tái bản, có sửa chữa và bổ sung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000, tr.19).
Hai tiếng “Đường âm” mà Nguyễn Tài Cẩn dùng ở đây dĩ nhiên là để chỉ âm tiếng Hán đời nhà Đường. Trở lại với mấy tiếng “Minh âm”, “Thanh âm” của chuyên gia Cao Tự Thanh, xin nói rằng đây là hai danh ngữ dùng để chỉ hai giai đoạn của tiếng Quan thoại trong quá trình phát triển của nó. Minh âm là hệ thống ngữ âm của tiếng Quan thoại đời Minh, mà người ta cho rằng dáng dấp vẫn còn được bảo lưu trong trên 90% những từ Triều Tiên gốc Hán hiện nay. Còn Thanh âm thì trên đại thể là hệ thống ngữ âm của tiếng Quan thoại đời nhà Thanh, đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của ngữ âm tiếng Mãn Châu, ngôn ngữ của những kẻ thống trị, mà Khang Hy là một hoàng đế nổi tiếng về văn hoá. Xem ra, “Minh âm” và “Thanh âm” của chuyên gia họ Cao chẳng trực tiếp có dây mơ rễ má gì với ngôn ngữ của “các di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam qua Đàng Trong tỵ nạn” cả.
Đi vào cụ thể, ta sẽ giật mình thấy rằng ông họ Cao thực sự không biết những chữ mà ông đã nêu thì mấy anh “di thần phản Thanh phục Minh” kia phát âm như thế nào. Âm của mấy anh ba Tàu đó chủ yếu là âm Quảng Đông, rồi đến âm Tiều Châu. Chữ huỳnh 黃 thì mấy chú chệch, thím xẩm người Quảng Đông đọc là woòng, còn người Tiều lại đọc thành en5 thì làm sao cho ra cái âm huỳnh được? Chữ phước 福 thì dân Quảng Đông đọc là phúc (họ bắt chước Đàng Ngoài chăng?) còn dân Tiều Châu lại đọc thành hóc thì làm sao sinh phước cho được? Đến như chữ võ武 thì dân Quảng Đông đọc thành mộu còn dân Tiều thì đọc thành bhu2; cái tai của dân Miền Nam nghe thế nào mà phát âm thành võ?
Tác giả Tầm Hoan cũng có một “phong cách” y hệt như ông Cao Tự Thanh nên nhân tiện cũng xin đem ra nói luôn. Chuyên gia này đã nói liều về tiếng Quảng Đông như sau:
“ Hên xui tức hạnh tai đọc theo âm Hoa Hán, giọng Quảng Đông. Hạnh là may, tai là rủi (…) Ké(trong ăn ké, ngủ ké, v.v. – AC) tức ký đọc theo âm Hoa Hán, giọng Quảng Đông (…) Xập xí xập ngầu tức thập tứ thập ngũ đọc theo âm Hoa Hán, giọng Quảng Đông (…) Xúi tức thôi đọc theo âm Hoa Hán, giọng Quảng Đông (…) Xỉu (trong ngất xỉu – AC) tức hưu đọc theo âm Hoa Hán, có lẽ theo giọng Hoa Nam (…).” (“Một số từ gốc Hoa trong phương ngữ Nam bộ”, Nam bộ xưa & nay, Nxb TPHCM – Tạp chí Xưa & Nay, 1999, tr.344).
Thực ra dân Quảng Đông không phát âm ký 寄 thành ké mà thành kei. Xập xí xập ngầu là âm Triều Châu của thập tứ thập ngũ chứ âm Quảng Đông của bốn tiếng này thì lại là xập xi xập ựng(chính xác là [ŋ] với thanh thượng thấp [đê thượng]). Âm Quảng Đông của chữ thôi 推 là thoei, thanh bình cao (cao bình) chứ không phải “xúi”. Âm Quảng Đông của chữ hưu 休 là yấu (như cách đọc chữ dấu ở Nam Bộ), rất xa với âm “xỉu” của Tầm Hoan; còn âm Triều Châu của nó là hiu. Cuối cùng, âm và nghĩa của hai chữ hạnh tai 幸災 như thế nào thì chúng tôi đã nói rõ trong bài “Từ nguyên của hênh trong hênh xui” (Năng Lượng Mới số 119, ngày 11-5-2012) nên bất tất phải nói lại ở đây.
Tóm lại, cái phong cách nghiên cứu từ nguyên của hai (?) chuyên gia Cao Tự Thanh và Tầm Hoan rất đơn giản: không cần biết âm Quảng Đông của một chữ Hán là gì, chỉ cần vận dụng óc tưởng tượng cũng có thể tìm ra nó. Có người còn tuyên bố rằng hễ muốn tìm từ nguyên của hai tiếngngầu pín thì cứ đi ăn ngầu pín rồi kêu anh chủ tiệm người Tàu viết cho hai chữ “ngầu pín” là xong! Đơn giản thay!
(*) en5 và bhu2 ghi theo Triều Châu âm tự điển của Đạt Phủ và Trương Liên Hàng (Quảng Châu Lữ du xuất bản xã, 1996).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét