Thứ Hai, ngày 30 tháng 9 năm 2013
Từ điển từ và ngữ Việt Nam
B
Ba mươi sáu chước (dịch từ chữ Hán: tam thập lục kế) Ý nói trốn đi là hợp.
Ba mươi sáu chước đúng là dịch từ “tam thập lục kế”. Tuy nhiên nó đâu có nghĩa “trốn đi là hợp” nếu không bao gồm cả vế thứ hai “chước chuồn là hơn” ? (Giống như câu nguyên văn chữ Hán phiên âm: Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách)
Cuốn Từ điển không thể tin cậy của GS Nguyễn Lân |
Bạch hổ. Con cọp trắng vẽ trong các tranh tôn giáo.
Giải thích như vậy là phiến diện. Bởi cọp trắng không chỉ xuất hiện trong tranh thờ mà nó còn là con vật có thật, sống hoang dã. Theo Bách khoa toàn thư mở “Hổ trắng hay Bạch hổ là hổ với một gen lặn tạo ra những màu sắc nhạt. Một đặc tính di truyền làm cho các sọc của hổ rất nhạt; trắng”. Ấy là chưa nói việc soạn giả bỏ quên Bạch Hổ với tư cách địa danh nổi tiếng - một mỏ dầu lớn ngoài khơi thuộc vùng biển Vũng Tàu nước ta.
Bạch yến (yến: chim én) Chim én trắng: Bạch yến trong lồng làm cảnh.
Cần phân biệt giữa chim én (đuôi chẻ hình chữ V, bay chấp chới bắt côn trùng, gắn với hình tượng mùa xuân) và chim yến nuôi trong lồng. Chim yến nuôi trong lồng nghe hót, làm cảnh có nhiều sắc lông như: bạch yến, hoàng yến, hồng yến...Trong khi chim én ngoài bầu trời gắn với hình tượng mùa xuân, đuôi chẻ chữ V, có mầu lông thuần nhất: lưng cánh mầu sẫm biếc, bụng màu trắng bạc. Vì không thuần trắng nên người ta không gọi là bạch yến mà gọi là ngân yến (én bạc), ý chỉ cái mầu trắng như ánh bạc ở bụng con én. Cách giải thích của GS Nguyễn Lân là lẫn lộn giữa hai con hoặc biến hai con làm một.
Bát dật (bát: tám; dật: yên vui) Lối múa xưa, có tám hàng, mỗi hàng tám người: Múa bát dật trong cung điện.
Đội múa có tới 64 người tham gia quả là vui thật. Mà có yên thì mớivui, mới bày đặt ra chuyện múa may...Nghe thật có lý ! Thế nhưng “dật”(佾) ở đây không phải là “yên vui” mà có nghĩa là hàng. Không biết chữ"dật" với nghĩa "yên vui" có tự dạng như thế nào và soạn giả căn cứ vào sách nào ? Hán Việt tự điển của Thiều Chửu cho biết: "Dật 佾 : Hàng dật. Trong lễ định vua Thiên tử được bắt sáu mươi tư người múa bài hát, mỗi hàng tám người gọi là múa bát dật". Chính soạn giả đã thừa nhận“bát dật” là “Lối múa xưa, có tám hàng, mỗi hàng tám người” đấy thôi.
Bay lả bay la. Nói chim bay nơi này nơi khác sát mặt đất: con quạ bay lả bay la tìm mồi.
Chưa chính xác.“Bay sát mặt đất” là kiểu bay là là. Đó là kiểu bay dang thẳng hai cánh (chứ không vẫy) để hạ dần độ cao và chọn vị trí đỗ của con cò (và nhiều giống chim cánh rộng khác). Nếu chưa chọn được nơi đỗ ưng ý, con cò tiếp tục vẫy rất nhanh đôi cánh để tăng độ cao, sau đó lại tiếp tục động tác bay là là. Và cuối cùng, nó liệng lại (vòng lại một quãng ngắn) để triệt tiêu quán tính bay rồi mới nhẹ nhàng đỗ xuống mà không bị trượt dài trên mặt ruộng. Còn “bay lả bay la” là kiểu bay trên bầu trời cao rộng, cánh của chim dài mà vẫy khoan thai, mềm mại như “lả”, như “la” vậy. Cần lưu ý, chỉ khi bay cao, nhờ vào gió và các luồng khí bốc lên từ mặt đất, con chim, con cò mới cỏ thể vẫy cánh khoan thai, thậm chí chỉ cần dang hai cánh mà liệng, bay. Còn khi bay sát mặt đất, hai lợi thế kia không còn, nếu "bay nơi này nơi khác" bắt buộc nó phải vẫy cánh liên tục, nếu không muốn rơi lăn quay xuống đất. Cuối cùng ví dụ “con quạ bay lả, bay la” nên thay bằng hình ảnh quen thuộc, chính xác hơn “Con cò bay lả bay la” trong ca dao.
Bắc thần (bắc: phương bắc; thần: tinh thần) Ngôi sao sáng nhất trong chùm sao tiểu hùng tinh, giúp người ta xác định hướng chính bắc.
Sai nghiêm trọng. Chữ thần (辰) ở đây chỉ chung mặt trời, trăng, sao. Ví dụ “Vi chính dĩ đức, thí như Bắc thần, cư kỳ sở nhi chúng tinh củng chi:為政以德,譬如北辰,居其所而眾星拱.Nghĩalà: Dùng đạo đức để giải quyết việc nước thì cũng ví như ngôi sao Bắc cực, ở yên một chỗ mà các ngôi sao khác đều chầu về (Luận ngữ - Vi chính). Chữ thần (辰) này khi đọc là thìn lại có nghĩa là rồng - chi thứ năm trong thập nhị chi. Còn chữ thần trong tinh thần có tự dạng là (神), không liên quan gì đến bắc thần (北辰). Ở đây chữ thần (辰) phải có nghĩa là trăng sao thì “bắc thần” mới nghĩa là "ngôi sao sáng nhất" thuộc chùm tiểu hùng tinh ở phía Bắc như chính GS Nguyễn Lân đã giảng chứ ? Nếu "thần" là “tinh thần”thì "bắc thần" lại nghĩa là "tinh thần phương Bắc" hay phương nào đó rồi !
Bần nông (bần: nghèo; nông: làm ruộng)
Nông đây là người làm ruộng (danh từ) chứ không phải “làm ruộng”động từ.
Bất chắc. Không chắc nhưng có thể cũng sẽ diễn ra:Phòng khi bất chắc dụng binh (Tú-mỡ)
Người Việt chỉ nói không chắc chứ không dùng kết hợp từ: bất (không) + chắc (chắc chắn) = không chắc. Hơn nữa, soạn giả đã lẫn lộn giữa bất chắc (từ do tự GS Nguyễn Lân nghĩ ra) có nghĩa không chắc vàbất trắc với nghĩa không lường được trong câu thơ của Tú Mỡ. Sai sót này xuất phát từ lỗi phát âm không phân biệt “ch” và “tr” dẫn đến lỗi chính tả, và cuối cùng là lỗi từ vựng của chính người làm từ điển.
Béo mầm. Béo và khoẻ.
Chưa chính xác. Từ này không hàm ý béo khỏe. Béo mầm = Béo mềm và mũm mĩm những thịt mới đúng.
Béo ngấy. Thức ăn có nhiều mỡ quá.
Béo ngậy. Như béo ngấy.
“Béo ngậy” không thể đồng nghĩa với “béo ngấy”. Béo ngậy = Béo có vị ngọt, bùi, dậy mùi thơm ngon quyện lẫn nhau. Còn “béo ngấy” = béo khiến người ta không muốn ăn nữa vì quá nhiều mỡ.
Bón đón đòng. Bón phân cho lúa khi sắp trổ bông: Kịp thời bón đón đòng nên năng suất cao.
Đã gọi là “bón đón đòng” có nghĩa phải bón khi lúa mới bắt đầu giai đoạn hình thành đòng chứ ? Sao lại bón vào lúc lúa sắp trổ bông ? Khi lúa sắp trổ bông người ta gọi là có đòng già hoặc đòng trổ. Lúc này quá trìnhhình thành đòng đã xong. Đòng to hay đòng nhỏ, bao nhiêu vỏ hạt cũng đã định hình; lúa chỉ đợi trổ bông, phơi màu thụ phấn và vào chắc nữa là ổn. Vậy, bón đón đòng được tiến hành khi nào ? PGS TS Nguyễn Văn Bộ-Trường đại học Cần Thơ cho biết: “Để có bông lúa nhiều hạt và hạt to, cần phải bón phân đón đòng đúng lúc và đủ lượng. Thông thường, nông dân dựa vào thời gian tính từ khi sạ (khoảng 40 - 45 ngày) để bón đón đòng. Bón đón đòng dựa vào thời gian không chính xác vì thời điểm tượng đòng thay đổi theo chu kỳ sinh trưởng của giống, thời tiết và kỹ thuật canh tác. Bón sớm cây lúa tiếp tục nhảy chồi, chồi sẽ cạnh tranh dinh dưỡng ảnh hưởng đến bông; bón trễ khi hạt trên bông đã hình thành, dù bón phân cũng không thể nào tăng thêm số hạt được. Thường sau khi sạ 36 - 38 ngày phải thăm ruộng thường xuyên, nhổ cây lúa xé ra quan sát đỉnh sinh trưởng, khi thấy có tim đèn (hay còn gọi là bông gòn) nhô lên chừng 1mm là bón đón đòng được”. (Quản lý tốt giai đoạn làm đòng, lúa có năng suất cao-Báo Kiên Giang). Thời gian từ có tim đèn(hay tượng đòng) này đến lúc trổ cũng phải mất đến 25 ngày, đủ để cây lúa hấp thu dinh dưỡng nuôi đòng và nuôi hạt sau này. Nếu thực tế có chuyện bón phân vào lúc lúa sắp trổ bông thì phải gọi là bón “tiễn đòng” mới đúng chứ không còn đón rước gì nữa. Tuy nhiên, không ai còn đem phân bón cho lúa thời kỳ này.
Bón lót. Bón phân vào ruộng trước khi cấy lúa: Đã bón lót rồi nên cấy kịp thời.
Bón lót không phải là khâu kỹ thuật chỉ áp dụng cho cây lúa nước. Trong thâm canh cây trồng, từ đậu, lạc, ngô khoai...đến các loại cây công nghiệp mía, dứa, cà phê, rồi cây ăn quả lâu năm, cây lâm nghiệp đều áp dụng biện pháp kỹ thuật bón lón. Nói về khâu “bón lót” nói chung phải giải nghĩa là: bón phân trước khi cấy, trồng hoặc gieo hạt, nhằm cung cấp dinh dưỡng kịp thời cho cây ngay sau khi bén rễ, hồi xanh, ra lá mới.
Bón phân. Bỏ phân vào ruộng: Bón phân bằng u-rê.
Người ta thực hiện bón phân với mọi loại đất trồng. Không chỉ ruộng mới bón phân và cần phải bón phân. Bởi vậy “bón phân” phải được giảng là: bỏ phân vào đất để bổ sung chất dinh dưỡng cho cây trồng.
Bón thúc. Bón phân để đẩy mạnh sự trưởng thành của lúa: Nhờ có bón thúc nên lúa được xanh tốt.
Bón thúc cũng là biện pháp kỹ thuật áp dụng cho tất cả các loại cây trồng thâm canh, không riêng gì cây lúa. Ví dụ: bón thúc cho ngô, mía, cây ăn quả các loại. Bón thúc được thực hiện vào những giai đoạn cây trồng cần nhiều dinh dưỡng để sinh trưởng, phát triển như: giai đoạn phát triển thân, lá, đẻ nhánh, phân cành, giai đoạn hình thành hoa, giai đoạn nuôi quả.
Nhìn chung các từ bón lót, bón phân, bón thúc mà GS Nguyễn Lân giải thích chỉ phù hợp với các chuyên đề về kỹ thuật trồng lúa nước chứ không phải là “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” nói chung.
Bong bong. Tả tiếng kêu nhỏ và thanh: Sóng dồn mặt nước vỗ bong bong (HXHương)
Câu thơ của Hồ Xuân Hương mà GS trích dẫn ở trong bài “Kẽm Trống”.Thơ Hồ Xuân Hương thường có nhiều dị bản. Tuy nhiên trong trường hợp này GS Nguyễn Lân đã trích dẫn sai. Chính xác là: “Gió đập cành cây khua lắc cắc, Sóng dồn mặt nước vỗ longbong”. Như thế vỗ "long bong" đã bị GS trích dẫn thành vỗ “bongbong”). Chúng ta thấy ở câu trên là khua “lắc cắc” chứ đâu phải khua “cắc cắc” ? Phải là từ “long bong” mới tinh tế và phù hợp với âm thanh rất khó tả của nước dội vào Kẽm Trống. Nó khác hẳn với tiếng kêu"bong bong" khô cứng phát ra từ chiếc trống bỏi (muỗi).
Bồ đề (bồ: tên cây; đề: nêu lên) (Chữ Phạn bodhi có nghĩa là giác ngộ, đồng thời chỉ cây bồ đề mà Thích Ca ngồi dưới gốc trước khi giác ngộ) đạo Phật.
Đây chỉ là từ phiên âm (từ chữ Phạn bodhi như chính soạn giả đã thừa nhận). Do đó “bồ" và "đề” khi tách ra tuy có chữ mà không có nghĩa. Việc giải nghĩa tách riêng từng từ trong hai từ này là việc làm...vô nghĩa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét