Thứ Ba, ngày 10 tháng 9 năm 2013
NHỮNG SAI LẦM CỦA NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG
TRONG TỪ ĐIỂN TỤC NGỮ VIỆT
Cuốn từ điển chứa đựng nhiều sai lầm của Tiến sĩ Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương |
“Từ điển Tục ngữ Việt (1) của nhà ngôn ngữ học - Tiến sĩ Nguyễn Đức Dương là một công trình biên soạn công phu, hoàn toàn dựa theo những tiêu chí mới về cách thu thập dữ liệu, cũng như cách diễn giải từng câu tục ngữ trong các đề mục. Với quy mô và phương pháp nghiên cứu khoa học, cập nhật nội dung, có thể nói đây là quyển Từ điển tục ngữ Việt hoàn chỉnh nhất hiện nay... một công trình nghiên cứu chuẩn hóa về tục ngữ Việt”(Lời NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh) Và“Quyển Từ điển này khác với nhiều công trình cùng loại đã ra mắt bạn đọc trước đây ở hai điểm chính: (1) ở cách thức thu thập dữ liệu và (2) ở cách thức diễn giải dữ liệu” (Lời người biên soạn). Theo đó, Tiến sĩ Nguyễn Đức Dương cho rằng sự khác biệt ở hai khâu này sẽ khiến sách Từ điển tục ngữ Việt tránh được những sai lầm “phải trả giá, lắm khi rất đắt” của một số cuốn từ điển khác.
Thông thường đối với loại sách khảo cứu, biên soạn...Nhà xuất bản và tác giả vẫn dành đôi dòng “cầu thị” tới độc giả bởi những gì còn khiếm khuyết khó tránh khỏi với mong muốn được góp ý, xây dựng để sách hoàn thiện hơn khi tái bản. Tuy nhiên, có lẽ cả Nhà xuất bản cùng soạn giả đều tự tin về “phương pháp nghiên cứu khoa học” của Từ điển tục ngữ Việt đã thuộc diện “chuẩn hóa” và “hoàn chỉnh nhất hiện nay” nên xét thấy không cần đưa ra mấy lời “khách sáo” đó nữa chăng ? Thay vào đó, lời cuối, soạn giả một lần nữa khiến bạn đọc hoàn toàn yên tâm khi được biết“Quyển Từ điển này ra mắt bạn đọc được là nhờ sự giúp đỡ chí tình cả về tinh thần lẫn vật chất của GS. Cao Xuân Hạo, nhà khảo cứu An Chi, nhà giáo Hoàng Xuân Tâm, PGS Hoàng Dũng, PGS Bùi Mạnh Hùng”(!)
Vậy Từ điển tục ngữ Việt của Tiến sĩ - Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương “khoa học”, “chuẩn hóa” và “hoàn chỉnh” tới mức nào ?
Có thể bắt đầu bằng một nhận xét: sách Từ điển tục ngữ Việt hầu như mắc lại đầy đủ những sai sót (về từ vựng, ngữ pháp, ngữ nghĩa, phương pháp luận...), mà chính tác giả từng cảnh báo và đưa ra làm ví dụ trong phần phụ lục để phê phán các sách như: Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân, Đại từ điển tiếng Việt - Nguyễn Như Ý (chủ biên), Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ - Hoàng Văn Hành (chủ biên) và Kho tàng tục ngữ người Việt của nhóm Nguyễn Xuân Kính-Nguyễn Thúy Loan-Phan Lan Hương-Nguyễn Luân,v.v…(chuyện đúng sai mà Nguyễn Đức Dương phê phán các sách này cũng cần phải xem lại).
Dưới đây là một phần những sai sót của Từ điển tục ngữ Việt:
-Áo cứ tràng; làng cứ xã Áo thì nên lấy tràng làm chỗ dựa (khi cắt may); làng thì nên lấy lý trưởng làm chỗ dựa (khi nhận định).
Với câu này, trong phần Phụ lục, Nguyễn Đức Dương đã phê GS Nguyễn Lân: “Do tra cứu chưa kỹ nghĩa từ vựng của TRÀNG trong câu Áo cứ tràng, làng cứ xã, Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (1989-10) đã đánh đồng nó với CHÀNG và đinh ninh rằng CHÀNG này cũng chính là từ được “phụ nữ hay dùng để gọi chồng hoặc người yêu còn trẻ (với hàm ý thân thiết)”...Sơ suất đáng tiếc ấy đã đẩy tác giả tới chỗ phải đưa ra một lời DG (diễn giải-HTC) hoàn toàn “xa lạ” với cảm thức của bao người: ‘(Xã là chức dịch trong làng). Nói tính ỷ lại của người đàn bà, cũng như tính ỷ lại của người dân trong thôn xóm, không thấy được vai trò làm chủ của mình’... Về phần mình, Nguyễn Đức Dương đưa ra cách giải thích khác: “Theo Từ điển tiếng Việt (2005), TRÀNG là một từ cổ dùng để chỉ cái vạt trước của chiếc áo dài”) ‘Áo thì nên lấy tràng làm chỗ dựa (khi cắt may); làng thì nên lấy lý trưởng làm chỗ dựa (khi tiếp xúc, bình phẩm)’.
Đúng là GS Nguyễn Lân đã sai khi nhầm “tràng”, một bộ phận của chiếc áo thành “chàng” là con người, chàng trai và đưa ra cách giải thích không thể chấp nhận. Thế nhưng với Từ điển tục ngữ Việt, tác giả lại thay cái sai này bằng cái lầm khác kèm theo lời giải thích khó chấp nhận không kém GS Nguyễn Lân. Chữ “tràng” trong cây tục ngữ đang bàn không phải “vạt trước của chiếc áo dài” như Nguyễn Đức Dương lầm tưởng mà nghĩa là cái cổ áo:
- Việt ngữ tinh nghĩa từ điển - Long Điền Nguyễn Văn Minh giải thích: Lãnh: “là tràng áo, như “lãnh tụ” tràng áo và ống tay áo, chỉ dùng với nghĩa bóng nói người đứng đầu một đảng phái.”
- Việt Nam tự điển - Hội Khai Trí Tiến Đức: “領-Lĩnh. Tràng áo (không dùng một mình). Lĩnh tụ 領 袖 tràng áo và tay áo”.
Cái cổ áo được một số cuốn tự điển, từ điển giải nghĩa là là bộ phận quan trọng nhất của chiếc áo:
- Khang Hy tự điển:
領:(...) 里整切音嶺。領,頸也。(...)。亦言總領衣體,爲端首也:“Lĩnh (...) Lý chỉnh thiết, âm lĩnh (...) “Lĩnh-cảnh dã (...), diệc ngôn tổng lĩnh y thể, vi đoan thủ dã” nghĩa là: Chữ Lĩnh - thiết âm là lý chỉnh, âm đọc là lĩnh. Lĩnh-cái cổ (...) cũng chỉ bộ phận thống lĩnh đối với chiếc áo; là cái đầu mối vậy”.
- Hán Việt tự điển của Thiều Chửu: “Lĩnh 領.① Cái cổ...② Cái cổ áo, một cái áo cũng gọi là nhất lĩnh - 領. Xóc áo thì phải cầm cổ, cầm tay thì áo mới sóng, vì thế nên người nào quản lí một bộ phận, một nhóm gọi là lĩnh tụ 領袖 (đầu sỏ)”.
- Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giải thích: “Lãnh 領 - Cái cổ-Cổ áo-Một cái áo-Thống suất cả…”. “Lãnh tụ - Cổ áo và tay áo. Khi cổi áo tất trước cầm cổ áo và tay áo-Ngb. Người có tài xuất chúng làm thủ-lãnh cho nhân-chúng”.
Trong 3 cách giải thích, Thiều Chửu rõ ràng hơn cả. Tuy nhiên, hai từ “xóc áo” và “sóng” có vẻ hơi khó hiểu. Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức giải thích: “Xóc: Xách lên mà lắc để cho xuống đều: Xóc cổ áo”; “Sóng: Trơn óng, thẳng, không rối”. Từ điển Việt-Bồ-La của A. de Rhodes giải thích “Xóc: Xóc áo: Xóc áo đã mặc để cho thẳng”.
Như vậy: tràng (cổ áo) là bộ phận mấu chốt, căn bản nhất của cái áo, giữ vị trí thống lĩnh đối với cả cái áo (Chúng ta đều biết ngày xưa áo của cả nam lẫn nữ đều rất dài, vạt trước, vạt sau dài, ống tay cũng dài. Chiếc áo sẽ trở nên rất lùng nhùng nếu không tìm đúng vị trí cổ áo mà cầm, nắm); xã (xã trưởng, lý trưởng) là cấp chủ chốt, quản lý cao nhất của làng. Muốn “xóc” (cầm, túm) để giũ cái áo cho phẳng cứ nắm lấy phần cổ áo là chắc chắn, gọn gàng nhất; cũng như gặp việc ở trong làng (phu phen, tạp dịch, bắt rượu lậu…) cứ nắm lấy người đứng đầu có trách nhiệm cao nhất “xã” (trưởng) mà “gõ” xuống. (Bởi thế, dân gian có câu: Đục đến chạm thì chạm đến khăng, Đòn đánh lý trưởng thì văng cả làng là vậy). Nếu nói ‘Áo thì nên lấy tràng làm chỗ dựa (khi cắt may) như N.Đ.D giải thích thì đó là kinh nghiệm cắt may quần áo mất rồi; còn “kinh nghiệm ngoại giao”:“làng thì nên lấy lý trưởng làm chỗ dựa (khi tiếp xúc, bình phẩm)” cũng có “vấn đề”. Bởi “bình phẩm” về làng xã mà chỉ dựa vào mỗi ông lý trưởng thì làm sao chính xác ? Không lẽ mỹ tục thuần phong của làng xã tập trung cả nơi ông xã, ông lý chăng ?
- Ăn vụng không biết chùi mép
Đã ăn vụng lại còn chẳng biết chùi mép (thì quả là dại dột hết chỗ nói). Hay dùng để nhắc mọi người hãy nhớ chùi kỹ mép sau khi ăn vụng xong (cho khỏi bị phát giác).
Cứ theo cách lý giải này, tục ngữ khuyên dạy “mọi người” (trong đó chắc hẳn có tôi, chúng ta và cả… nhà ngữ học ?!) “nhớ chùi kỹ mép sau khi ăn vụng xong” (!) để sao cho trót lọt, “cho khỏi bị phát giác” (!) Hóa ra tục ngữ cũng dạy kinh nghiệm ăn vụng thế nào cho khéo ư ?
Thực ra, đây là một câu chửi, câu phê phán, chế giễu, mỉa mai kẻ làm chuyện vụng trộm, bất chính nhưng lại hớ hênh, để lại chứng cứ, dấu vết quá rõ ràng khiến người đời cười chê.
-Ba tháng con sẩy, bẩy tháng con sa
Mới ba tháng mà đã sinh (thì gọi là) con sẩy, mới bẩy tháng mà đã sinh (thì gọi là) con sa.
Dân gian không có ý dùng tục ngữ để giải nghĩa từ vựng “con sẩy” và “con sa” trong tiếng tiếng Việt.
“Ba tháng con sẩy, bẩy tháng con sa” là câu tục ngữ đúc kết kinh nghiệm dưỡng thai, an thai của dân gian (mà đến nay đã được khoa học chứng minh): trong ba tháng đầu thai kỳ, người mẹ thường dễ bị sẩy thai nhất. Bởi vậy trong thời kỳ này, chuyện đi đứng, sinh hoạt, thai phụ phải kiêng khem cẩn thận. (Đông y có bài thuốc “an thai”, Tây y cũng có liệu pháp điều trị chống sẩy thai). Vượt qua được thời kỳ 3 tháng đầu, thai nhi sẽ ổn định hơn. Tuy nhiên đến tháng thứ 7, thai phụ lại rất dễ bị đẻ non (con sa). Do đó từ tháng thứ 7 người mẹ cũng phải cẩn trọng trong đi đứng, sinh hoạt để tránh bị sinh non.
-Báng đầu thằng trọc phải nể lòng ông sư
Cốc (vào) sọ những kẻ đầu trọc thì phải nể lòng ông sư (vì đầu ông sư cũng trọc).
Từ “báng” ở đây không thể hiểu là “cốc (vào) sọ” được. Nếu “cốc” vào đầu kẻ trọc thì kẻ trọc chịu đau, đâu ảnh hưởng gì đến ông sư ? Báng là từ Hán-Việt có nghĩa là: báng bổ, mỉa mai,lên tiếng chê bai, xúc phạm đến hình ảnh hoặc những điều đối với người khác là linh thiêng. Đại Nam Quấc âm tự vị-Huình Tịnh Paulus Của: “Báng: Chê bai, nói xấu cho nhau”.
Câu này có ý khuyên mọi người nên thận trọng khi ăn nói, nhất là những lời có ý báng bổ kẻ khác.
-Bạng duật tương trì ngư ông đắc lợi
Trai và cò mà tranh ăn với nhau thì kẻ được hưởng lợi thường là ông đánh cá (vốn được mời đứng ra phân xử vụ tranh chấp). Hay dùng để khuyên mọi người chớ có tranh ăn với nhau mà dễ bị kẻ ngoài cuộc đoạt mất.
Sẽ thật không phải nếu dám coi thường nhà ngữ học - TS Nguyễn Đức Dương chưa hề biết đến điển cố“Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi”.Tuy nhiên, việc TS giải thích sai câu tục ngữ này lại nói lên điều đó.
Ở đây không có chuyện “trai và cò tranh ăn với nhau”, càng không có chuyện ông đánh cá “vốn được mời đứng ra phân xử vụ tranh chấp”. Điển cố này tóm tắt: Theo Chiến quốc sách, một hôm con trai mở miệng phơi nắng trên bãi cát, cò đi kiếm mồi, mổ ngay vào ruột con trai, trai liền khép chặt hai mảnh vỏ lại. Cò và trai cùng giằng nhau mãi, không con nào chịu nhường con nào, lão đánh cá đi qua thấy vậy liền chộp được cả hai. (Điển Cố văn học - Nhà XB Khoa học xã hội - Hà Nội 1977).“Tương trì” nghĩa là níu giữ, giằng co nhau, không phải là “tranh ăn” như soạn giả giải thích. Lẽ nào nhà ngữ học không biết đến cả mấy câu ca dao diễn dịch rất hay câu chuyện này: “Cái cò mà mổ cái trai, Cái trai quặp lại lại nhai cái cò, Ngư ông bước tới lò dò, Giơ tay chộp lấy cả cò lẫn trai” ?!)
Bắn sẻ chưa thuận tay dương ná
Bắn có mỗi con chim sẻ bé tí mà còn lóng ngóng (khi dương ná nữa là làm những việc khó hơn). Hay dùng để than phiền về những kẻ đã lớn xác mà làm ăn còn lóng ngóng như trẻ con.
Thứ nhất, đúng như soạn giả từng nhận xét “các đơn vị tục ngữ (và không chỉ riêng có tục ngữ-HTC) nhìn chung đều chuộng lối diễn đạt cô đọng". Thế nên câu này vốn được diễn đạt là “Bắn sẻ chưa thuận dương ná”, từ “tay” đưa vào là thừa.
Thứ hai: cách giải thích của soạn giả sai hoàn toàn. Với công việc của một xạ thủ thì mục tiêu càng nhỏ, yêu cầu độ chính xác càng cao. Nói “Bắn có mỗi con chim sẻ bé tí mà còn lóng ngóng” khác nào có người chê thủ môn bóng đá: “Quả phạt đền gần thế, chỉ cách có 11m mà không bắt được bóng” (!)
Câu này vốn xuất phát từ điển tích bắn chim khổng tước (chim công) ở bên Tàu. Theo Đường thư, Đậu Nghị người đất Mậu Lăng làm quan thượng trụ quốc thời Nam Bắc triều, có người con gái yêu, muốn kén rể, bèn sai vẽ một con chim công lên một bức bình phong, hẹn hễ ai bắn trúng mắt công thì gả con gái cho. Lý Uyên (sau này là Đường Cao Tổ), bắn trúng, lấy được vợ (Điển Cố văn học– sách đã dẫn). Do tiếng Hán “tước” cũng nghĩa là con chim sẻ, khi câu chuyện được Việt hóa, con chim công được thay bằng con chim sẻ. Và hình tượng “bắn sẻ” vẫn phù hợp do đây là loài chim nhỏ, lại hay nhảy nhót, việc dùng ná bắn trúng là chuyện không dễ. Thành ngữ “Rắp ranh bắn sẻ” ý nói đến chuyện cầu hôn, thi thố tài năng. Còn câu “Bắn sẻ chưa thuận dương ná” lại có ý chê bai, chế diễu kẻ muốn thi thố tài năng, toan tính làm chuyện lớn nhưng lại tài hèn, sức kém. Khác nào kẻ muốn bắn trúng mắt chim công, bắn trúng con chim sẻ nhưng đến cả việc dương ná còn chưa thuần-thuận-thành thạo. Chữ "thuận" ở đây không phải nghĩa là thuận theo mà là biến âm của chữ thuần (nghĩa là quen, thạo). Giống như cách nói thuận tay trái, hay thuận cả hai tay nghĩa là thuần tay trái, thuần cả hai tay (quen sử dụng tay trái, thành thạo tay trái hoặc thành thạo cả hai tay vậy).
-Cà làng Hạc ăn gãy răng; khoai làng Lăng ăn tắc cổ
Cà làng Hạc (rắn tới độ) có thể làm gãy cả răng khi nhai; khoai làng Lăng (cứng tới độ) có thể làm tắc cả cổ khi nuốt.
Lẽ nào nhà ngữ học lại không hiểu lời ăn tiếng nói của dân gian ? “Gãy răng” và “tắc cổ” chỉ là cách nói ngoa dụ mà thôi. Cà làng Hạc (nay thuộc TP Thanh Hoá) là thứ cà màu trắng, ăn rất giòn. Khi cắn, âm thanh quả cà vỡ ra, giòn tan, khiến người ta tưởng như hàm răng người ăn cà cũng gãy ra, vỡ theo đánh “đốp”. (Còn có giống cà quả nhỏ, mầu trắng, ăn giòn tan như “pháo” nên gọi là cà pháo). Làng Lăng (làng Linh Lộ-xã Quảng Hợp-Quảng Xương- Thanh Hóa) có giống khoai tên là Ô Xập, lá chia nhiều thùy hình chân vịt, củ tròn, bột trắng xóa từ ngoài vào trong nên khi ăn thường bị nghẹn, cảm tưởng như cổ bị tắc lại. Câu tục ngữ này ngợi ca hai sản vật cà và khoai đều ngon, quý, không phải chê“rắn” và “cứng tới độ” ăn “gãy răng khi nhai” và “tắc cả cổ khi nuốt” như soạn giả lầm tưởng.
-Cha đưa; mẹ đón
Cha (có bổn phận phải) đưa con gái sang giao cho nhà trai (hôm đưa dâu); mẹ (có bổn phận phải) đón các cô dâu (từ nhà gái đưa sang nhà mình theo tục lệ cưới xin cổ truyền)
Câu tục ngữ này vốn dùng cho đám ma, nhưng do không hiểu, nhà ngữ học cố gán ghép, giải thích và đem dùng cho đám cưới (!) Nếu áp dụng theo công thức nhận diện tục ngữ của GS Cao Xuân Hạo mà Nguyễn Đức Dương đề xuất bằng phép thử thêm thì hoặc là, ta sẽ có Cha (thì) đưa, mẹ (thì) đón. Như vậy cha và mẹ đều đóng vai trò chủ thể (không phải con gái và con dâu). Nếu theo cách hiểu của Nguyễn Đức Dương, câu tục ngữ phải là (Con) gái cha đưa, (con) dâu mẹ đón mới hợp lý.
Theo nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Phổ “Tục “cha đưa, mẹ đón”, dân gian giải thích do bản tính cha cứng rắn, nghiêm nghị, con cái chỉ dám lẽo đẽo theo sau linh cữu, bản tính mẹ mềm yếu, đa cảm, con cái cần săn đón đằng trước linh cữu. Theo quy chế đời xưa chép trong Kinh Lễ: khi đưa tang, con cái đều theo sau linh cữu, nếu đi trước chả hóa ra đón tang hay sao? Cách giải thích dân gian hoàn toàn mang tính suy diễn. Xét thực tế, tục “cha đưa mẹ đón” xuất phát từ một kinh nghiệm vệ sinh y học nhân dân cổ truyền: đàn ông sau khi chết, uế khí, tử khí thoát ra cửa miệng, con cái phải đi sau, đàn bà sau khi qua đời, uế khí, tử khí thóa ra cửa mình, con cháu phải đi trước. Điều này còn thấy phổ biến ở thói quen thăm người ốm là đàn bà, khách thăm ngồi phía đầu giường, là đàn ông, khách thăm ngồi ở đằng đuôi giường”.(Nguồn gốc ý nghĩa tang lễ người Việt - Hoàng Tuấn Phổ-NXB Thanh Hóa - 2010)
-Chiêm khê; mùa thối
(Tình trạng hay gặp ở vùng chiêm trũng là đất gieo trồng) trong vụ chiêm hay bị khê; trong vụ mùa hay bị thối.
Từ “khê” được Nguyễn Đức Dương giải thích “Khê (Đất phơi ải) chẳng tài nào khô nỏ và tơi xốp nổi (do ít được dãi dầu cùng nắng gió)”. Và chữ “Thối (Đất làm dầm) chẳng tài nào nhuyễn ra nổi (do nước mất hết khả năng ngấm sâu vào đất).
Loại đất cày ải không đủ thời gian hoặc điều kiện thời tiết làm cho khô nỏ, người ta gọi là ải thâm, không ai gọi đất “khê”(Ải thâm không bằng dầm ngấu) Nếu đất “không tài nào nhuyễn ra nổi” nguyên do “nước mất hết khả năng ngấm sâu vào đất” thì sao gọi là “thối” được ?
Câu tục ngữ trên nói về khó khăn của vùng đất không chủ động được tưới tiêu.Vụ chiêm (gắn với mùa khô) chỉ trông chờ vào nước trời, nên đất đai, cây trồng thường bị “khê” - khô cháy (“khê” - trong từ cơm khê - cơm bị cháy khét). Vụ mùa (gắn với mùa mưa lũ) hệ thống tiêu nước kém nên đất đai và cây trồng bị ngâm đến thối trong nước lũ. Bởi thế đối tượng mà tục ngữ nói đến ở đây không chỉ là đất gieo trồng (như NĐD giải thích) mà bao gồm cả cây trồng trên đất ấy (cụ thể là cây lúa nước).
Thực ra câu tục ngữ “Chiêm khê, mùa thối” chỉ là cách nói hình tượng hơn câu “Chiêm khô; mùa úng” mà nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương dẫn ra ngay sau đó. Tuy nhiên, soạn giả lại tìm ra một cách giải thích khác, kèm thêm một cái sai khác: “Chiêm khô; mùa úng(Tiết trời hay gặp) khi làm chiêm là hanh khô (vì ít mưa); khi làm mùa là úng ngập (vì mưa nhiều)”. Theo cách giải thích này, soạn giả đã biến câu tục ngữ nói về nỗi khổ cực của người trồng lúa trên vùng đất canh tác khó khăn thành câu tục ngữ có nội dung nhận xét về đặc điểm “thời tiết hay gặp” của vụ chiêm và vụ mùa.
-Đám cưới chọn ngày; đi cày chọn hướng
(Làm) đám cưới thì nhớ chọn ngày (lành); cho trâu ra đồng đi cày thì nhớ chọn hướng (vượng).
Làm đám cưới “chọn ngày (lành)” thì đúng rồi. Nhưng “cho trâu ra đồng đi cày” cũng phải “nhớ chọn hướng (vượng)” mới cày thì nghe kỳ dị quá ! Nếu vậy, muốn trở thành thợ cày, người ta phải đi học thày phong thủy trước đã; và khi ra đồng, ngoài con trâu, cái cày, bác nông dân còn phải kè kè thêm cái la bàn ? !
Sản xuất nông nghiệp Việt Nam manh mún, nhỏ lẻ. Ruộng thì vuông, ruộng hình chữ nhật, ruộng xéo, gẫy góc, đủ mọi hình thù. Đường cày đầu tiên sẽ là đường quyết định cho tất cả đường cày, luống cày tiếp theo. Do đó, phải chọn hướng để cày, sao cho có được nhiều đường cày dài, trâu ít phải quay đầu, đồng nghĩa ít phải cuốc bờ, cuốc góc. Cũng giống chuyện "đám cưới xem ngày", nếu làm tốt ngay từ bước đầu tiên (chọn được ngày lành tháng tốt) thì sẽ gặp thuận lợi, suôn sẻ mãi về sau này. (theo quan niệm dân gian). “Đám cưới chọn ngày, đi cày chọn hướng” chỉ đơn giản vậy thôi.
Đan thúng gặp tre lòng hong; đan nong gặp tre cụt ngọn
(Tính) đan thúng thì gặp tre lòng hong (nên chất lượng bị giảm sút đi); (tính) đan nong thì lại gặp tre cụt ngọn (nên nong sẽ chóng mục). Hay dùng để than phiền về tình cảnh cứ phải dồn dập gặp rủi ro mà không sao tránh được.
Nếu đan bằng tre lòng hong, tre cụt ngọn chỉ bị “chất lượng giảm sút” hoặc “sẽ chóng mục” như soạn giả giải thích thì người mua (thúng, nong) về dùng phải chịu hậu quả; còn người đan vẫn có tiền bỏ túi như thường, đâu đến mức than phiền ?
Thực ra, tre “lòng hong” (tre bị sâu) và “tre cụt ngọn” (cụt từ thời kỳ măng và vẫn sinh trưởng bình thường) nhìn bề ngoài khó phát hiện, nhưng đặc tính rất giòn, dễ gãy, khó chẻ, khó đan. Dẫu cố tình đan, đến khi lận cạp cũng gãy hết, không phải (“chất lượng giảm sút” và“sẽ chóng mục”) như cách giải thích của soạn giả. Như vậy, câu tục ngữ than phiền về hoàn cảnh khó khăn, trớ trêu, tính chuyện làm ăn mà liên tục gặp rủi: đan thúng thì mua phải tre lòng hong, tính đan nong thì mua phải tre cụt ngọn. Chẳng những kế hoạch làm ăn bị hỏng mà còn bị mất tiền oan do bị lừa mua phải nguyên liệu kém.
Đất sỏi có chạch vàng
Đất chỉ toàn là sỏi với đá, nhưng sinh sống bên dưới lại là những con chạch bằng vàng.
“Chạch vàng” ở đây không phải là “những con chạch bằng vàng” mà là những con chạch béo vàng-thứ chạch thường sinh sống dưới đất bùn có nhiều màu mỡ.
-Đóm ăn ra; tim la ăn vào
Đóm là thứ hay cháy theo hướng từ trong ra: tim la là chứng hay ăn theo hướng từ ngoài vào.
Có thể dễ dàng nhận ra soạn giả chép nhầm từ “đom” thành “đóm” rồi giải nghĩa từ vựng, diễn giải nội dung tục ngữ rất khiên cưỡng. Tại sao bỗng đâu đem chuyện đóm cháy so sánh với bệnh tim la ? Mặt khác khi cố tình lý giải “đóm là thứ hay cháy theo hướng từ trong ra ngoài” cho hợp với từ chép nhầm khiến đã sai càng thêm sai. Khi đóm cháy, ngọn lửa lan dần từ ngoài vào phía trong (phía tay người cầm đóm) đâu có cháy từ phía trong tay người cháy ra ngoài ? Sai sót này xuất phát từ chỗ soạn giả không hiểu quy luật cấu trúc từ của tục ngữ, thành ngữ dân gian. (Giống trường hợp câu Áo cứ tràng, làng cứ xã bị GS Nguyễn Lân chép nhầm thành Áo cứ chàng, làng cứ xã , mà chính Nguyễn Đức Dương đã từng phê phán trong phần phụ lục Từ điển tục ngữ Việt).
Đom (là cách gọi tắt bệnh lòi đom hay lòi dom) cũng là tên gọi khác của bệnh trĩ. Bệnh này là chứng sa trực tràng, phát triển theo chiều hướng “ăn ra”, tức ngày càng lòi (lồi) ra ngoài hậu môn. Còn bệnh “tim la” (hay tiêm la hoặc xiêm la, bệnh lậu) lại xâm nhập (chủ yếu qua đường tình dục, đường máu…) rồi ăn sâu vào lục phủ ngũ tạng, không nhìn thấy được. Như vậy lòi đom và tim la đều là hai chứng bệnh. Câu “Đóm cháy ăn ra; tim la ăn vào” (thêm chữ “cháy”) Nguyễn Đức Dương dẫn ra ngay sau đó và cho rằng đồng nghĩa với“Đóm ăn ra; tim là ăn vào”, chẳng qua chỉ là một dị bản ngụy tạo, mục đích cố chứng minh cho cái vô lý của “Đóm ăn ra, tim la ăn vào” mà thôi. Trường hợp này đã thấy có chuyện "Dĩ hư truyền hư". Trên Tạp chí Văn hóa (Trường Đại học Văn hóa Hà Nội huc.edu.vn) bài "Tục ngữ về ốm đau chữa bệnh" của Hoàng Kim Ngọc đã ghi nhận dị bản "Đóm cháy ăn ra, tim la ăn vào" nói trên.
-Đói giỗ cha; no ba ngày tết
Hay bị đói là vào dịp giỗ cha (vì đâu còn lúc nào mà nghĩ tới chuyện ăn trong khi đang mải lo chuyện cúng giỗ); hay được ăn no là vào dịp ba ngày Tết (vì đó là một thông lệ vốn có tự ngàn xưa)
Không phải "hay đói là vào dịp giỗ cha". Chẳng có ở đâu phong tục làm giỗ cha lại theo quy luật như thế. Giỗ cha là dịp lễ trọng (Trâu bò được ngày phá đỗ, cón cháu được bữa giỗ ông - tục ngữ). Nếu "đói vì mải lo chuyện cúng giỗ" thì cúng xong cũng phải được ăn chứ ? Tục ngữ có câu "Trước cúng cha sau va vô miệng" cơ mà ? (Chữ va có tính chất hài hước, ý chỉ con cháu ăn uống thực sự sau khi cúng). Thực ra, câu tục ngữ “Đói giỗ cha, no ba ngày Tết” được hiểu như sau: Ngày giỗ cha rất quan trọng, nhưng không dứt khoát phải cỗ bàn thịnh soạn. Gặp năm mùa màng thất bát, đói kém, chiến tranh loạn lạc thì ngày giỗ cha có khi chỉ có nén hương, chén nước, bát cơm, quả trứng gọi là nhớ ngày kỵ. Như thế không có gì là trái đạo lý. Bởi tín ngưỡng thờ cúng của người Việt không câu nệ mâm cao cỗ đầy, "Bắt thiếu giỗ, không ai bắt cỗ lưng". Thế nhưng ba ngày Tết lại là chuyện khác. Người ta có thể túng thiếu, quanh năm nhịn đói, nhịn thèm, nhưng ba ngày Tết cũng phải chạy vạy bằng được để ít nhất không được ăn ngon cũng phải ăn no. Thế nên có câu "Giàu hay nghèo, ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà". Theo quan niệm, phong tục tập quán, Tết đến người ta không chỉ ăn cho no bụng mà còn ăn để lấy may cả năm. Ngày Tết được ăn ngon, ăn no, mặc đẹp, vui vẻ, nhàn hạ thì cũng gặp may cả năm. Tóm lại, câu tục ngữ chỉ đưa ra ngày quan trọng (giỗ cha) để so sánh, khẳng định một ngày khác quan trọng hơn: Tết là ngày quan trọng nhất trong tất cả những dịp lễ quan trọng trong năm; Có thể bị đói vào ngày giỗ cha nhưng ba ngày Tết dứt khoát phải được no. Ta còn bắt gặp cách nói này của dân gian trong câu "Cha chết không lo bằng gái to trong nhà". Ở đây, "cha chết" là đại tang, việc lớn lắm, thế mà được đem ra so sánh với chuyện "gái to trong nhà". Nhưng thủ pháp này của dân gian nhằm gửi đến một thông điệp, kinh nghiệm: có con gái lớn đến tuổi lập gia đình ở trong nhà là nỗi lo lắng lớn, (ví như lo quá lứa lỡ thì, lo chẳng may chửa hoang, làng phạt vạ, tai tiếng...) Sẽ là việc làm khá hài hước nếu chúng ta đặt thắc mắc và cố đi tìm nguyên nhân tại sao có chuyện coi thường chuyện "cha chết" như vậy.
Tham khảo: Về câu "Đói giỗ cha no ba ngày Tết", trên Báo Lao động Cuối tuần (7/1/2012), mục "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" PGS TS Phạm Văn Tình cho biết: "bản thân tôi nhiều lúc cũng không rõ nguyên do từ đâu dẫn đến câu tục ngữ này. Hầu hết các sách sưu tầm văn hoá dân gian chỉ thống kê chứ chưa giải thích kỹ câu đó (...). Đầu năm 2010, khi cuốn “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2010) xuất bản, tôi vội vã tra ngay". Theo PGS TS Phạm Văn Tình "cách cắt nghĩa như vậy (tức cách giải thích của Nguyễn Đức Dương-HTC) cũng chưa thật rõ ý". Thế là PGS TS Phạm Văn Tình đã phải đi làm cuộc "điền dã" theo cách "hỏi các cụ cao niên ở nhiều nơi tôi qua (Đông Cứu, Gia Lương, Hà Bắc; Yên Xá, Ý Yên, Nam Định; Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ, Thái Bình...)" để được các cụ giải thích tại sao lại đói vào ngày giỗ cha rất dài dòng. Theo đó, cách giải thích của PGS TS Phạm Văn Tình công phu hơn nhưng cũng không ngoài một số nguyên nhân là phải lo chuyện lễ lạt, cúng cấp, tiếp khách...nên bị đói vào ngày giỗ cha như TS Nguyễn Đức Dương.
-Đói no vua bếp hay; đắng cay bà gừng biết
Cả khi đói lẫn khi no vua bếp đều biết tường tận; cả khi khỏe mạnh lẫn khi ốm đau bà gừng đều biết rõ hết. Hay dùng để ngợi khen lòng cảm thông sâu sắc của ông Táo và củ gừng đối với thân phận của người nghèo ở nông thôn hồi trước.
Nguyễn Đức Dương chú thích: "Bà gừng. Tên dân gian hay dùng để gọi củ gừng theo lối ẩn dụ, vị thầy thuốc tài ba vẫn cứu giúp người dân quê nghèo trong việc chạy chữa mọi thứ bệnh tật".
Cách giải nghĩa và chú thích nghe thật mùi mẫn. Thế nhưng, đó chỉ là diễn xuôi, diễn nôm, lời “tán” vô căn cứ. Nghĩa đen của câu thành ngữ này là: Ông Bếp phụ trách việc bếp núc nên gia chủ đói hay no, nấu nướng ăn uống món gì đều không giấu được. Còn “bà Gừng” thường được dùng để "làm thang" cho ấm thuốc Bắc (cắt ba lát gừng bỏ chung với ấm thuốc để đun). Vì "nằm" ngay trong siêu thuốc suốt quá trình sắc nên thuốc đắng hay cay "bà gừng đều biết" cả, không thể giấu được. Và vai trò của "bà gừng" chỉ là phụ gia dẫn thuốc, để tăng công hiệu của thuốc. Không nên vì không hiểu mà tâng bốc "bả" thành "vị thầy thuốc tài ba vẫn cứu giúp người dân quê nghèo trong việc chạy chữa mọi thứ bệnh tật" (!) Nghĩa bóng câu thành ngữ này là: Không thể giấu giếm được sự thậ; Sự thật sẽ được xác minh bởi những người trong cuộc.
- Đừng chờm mà có ngày chấn móng
Đừng (xây tường vách) chờm (ra quá xa chân móng đỡ nó) mà có ngày sẽ bị chấn móng.
“Chấn móng” được Nguyễn Đức Dương chú thích: “(Tường vách) bị gãy gập lại ngay tại nơi tường, vách tiếp giáp với chân móng”. Thế nhưng như thế là tường bị đổ chứ móng đâu có chấn ? Hơn nữa, nếu giải thích theo hướng này thì “chờm” (vần ch) phải thay bằng “trờm” (vần tr) mới đúng. Việt Nam tự điển giải nghĩa: “Trờm: Thừa ra, trùm lên cái khác. Tóc trờm quá tai, Vung trờm miệng nồi”. Đây là “chờm” kia mà ? Cách giải thích của Nguyễn Đức Dương không thể đứng vững, bởi nội dung tục ngữ chẳng liên quan gì đến chuyện xây dựng tường vách. Đại Nam Quấc âm tự vị (Huình Tịnh Paulus Của) giải thích từ chờm: “Chờm: nhảy dựng, nhảy xơm mà chụp... Ngựa chờm- Ngựa dựng lên mà chụp”. Và xin tham khảo Việt Nam tự điển giải nghĩa một số từ có trong câu tục ngữ đang bàn: “Chờm: Cũng như chồm (...) Móng: Móng chân móng tay, móng lừa móng ngựa (...) Chấn: Xén, cắt bớt đi: Chấn móng ngựa”. Như vậy, từ chỗ lầm lẫn “chờm” (động từ) với trờm (tính từ) rồi lại giảng sai nghĩa từ vựng của “chờm”, Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương đã cho cái móng ngựa đi xa cả ngàn dặm rồi biến thành cái...móng nhà (!) Câu Đừng chờm mà có ngày chấn móng theo nghĩa đen là lời đe nẹt đối với con ngựa bất kham: Đừng nhảy chồm lên mà có ngày bị chấn (cắt, xén) bớt móng đi (do nhảy chồm nhiều móng bị bè, bẹt ra). Hiểu theo nghĩa bóng: đây là lời răn đe, cảnh cáo đối với kẻ ương bướng, ưa phá phách, sẽ có ngày tự mình làm hại mình.
-Gà kị hổ mang; lúa kị màng rạp
Gà là giống rất kỵ rắn hổ mang (tới độ dễ bị chột đi sau khi bị giống rắn ấy “thổi”); lúa là giống rất kỵ màng rạp (tới độ khó mà trổ nổi sau khi bị lũ rầy ấy ập tới hút nhựa)
Nguyễn Đức Dương chú thích: “Màng rạp dt. Tên dân gian hay dùng để chỉ giống rầy chuyên hút nhựa từ lá lúa khiến lá bị đen đi và không sao làm nổi đòng”.
Giải thích như vậy là không hiểu tập tính sinh trưởng và sự gây hại của con sâu rầy thế nào. Con rầy không bao giờ "hút nhựa từ lá lúa". Vì nhựa (chất dinh dưỡng của lúa) không tập trung ở lá mà ở thân, bẹ lúa. Thứ hai “lũ rầy” không “đánh tập kích” kiểu “ập tới hút nhựa” giống như đàn chim mà chúng di trú ngay tại ruộng, đẻ trứng, sinh sôi nảy nở, lứa nọ gối lứa kia (gọi là rầy gối lứa) và thi nhau chích hút ở phần thân dưới gốc lúa. Thế nên khi phun thuốc diệt rầy, người ta phải rẽ lúa thành băng, đưa trực tiếp vòi phun xuống gốc lúa để thuốc tiếp xúc trực tiếp với con rầy chứ không phun trên bề mặt của lá lúa. Nếu bị rầy hại nặng ở thời kỳ nào, cây lúa sẽ bị chết khô giống như hơ vào lửa (gọi là cháy rầy). Đâu phải chỉ “khiến lá bị đen đi và không sao làm nổi đòng” hay "khó mà trổ nổi" như cách giải thích của nhà ngữ học. Còn cái thứ hại mà “khiến lá bị đen đi” chính là do giống rệp muội đen chứ không phải rầy. Rệp chích hút nhựa cây, chất thải của chúng tiếp tục được một loại nấm cộng sinh tạo thành lớp phấn màu đen phủ kín lá cây, nên gọi là rệp muội đen. Và rệp muội đen thường gây hại trên cây trồng cạn như: cây ăn quả, mía, chuối, cam quýt ...chứ không phải cây lúa nước.
Mài mực dỗ con: mài son đánh giặc
Mài mực (nho là việc dễ làm còn hơn cả) dỗ con; mài son (cục là việc khó làm còn hơn cả) cầm quân đánh giặc.
Mài mực ru con, mài son đánh giặc
Mài mực (nho là việc dễ làm còn hơn cả) ru con; mài son (cục là việc khó làm còn hơn cả) cầm quân đi đánh giặc.
Nguyễn Đức Dương giải thích câu này không đến nỗi sai lạc nghiêm trọng như GS Nguyễn Lân: “Mài mực ru con, mài son đánh giặc. Nói các ông đồ ngày xưa ngày thường ngồi dạy học đồng thời giúp vợ làm việc vặt trong nhà, nhưng khi có giặc thì tham gia phục vụ quân sự” (Từ điển Thành ngữ tục ngữ Việt Nam-NXB Văn hóa thông tin-1989) Nhưng soạn giả Nguyễn Đức Dương lại mắc phải cái sai kiểu khác.
Xin hỏi, trẻ nhỏ mà quấy khóc, dỗ được nó nín, ru cho nó ngủ đâu dễ tới mức có thể đem so sánh với những việc làm dễ nhất trên đời ? Tục ngữ cũng đâu nói “dễ làm còn hơn cả” ru con, hay “khó làm còn hơn cả” đánh giặc. Hơn nữa, mài mực nho đâu có dễ ?
Câu tục ngữ “Mài mực ru con, mài son đánh giặc” được diễn giải là: Mài mực phải mài nhẹ nhàng giống như ru con (hoặc dỗ con); mài son phải mài mạnh mẽ giống như đi đánh giặc. Bởi vì, mực tàu đóng thành thỏi rất rắn, nhưng khi mài lại không được phép mạnh tay. Nếu sốt ruột, mài mạnh tay cho nhanh, mực sẽ không mịn, sinh ra lắm hạt sạn nhỏ; khi viết ngọn bút bị xơ, nét bút không đẹp. Ngược lại, nếu mài nhẹ nhàng, từ từ, êm ái (như “ru con”) mực trong thỏi sẽ ngấm dần, hoà tan, quyện với nước, cho một thứ mực mịn màng, sóng sánh, khi viết đầu bút chụm lại, bút lông có độ đàn hồi tốt và nét bút không bị xơ, cứng, mặt chữ bóng, đẹp. Còn đối với mài son. Xưa kia, người ta thường lấy các loại đá có màu đỏ trong tự nhiên để làm son, rất rắn. Tuy nhiên, son không yêu cầu mịn như mực, bởi thông thường người ta không dùng son để viết chữ mà chỉ dùng để phê, khuyên, đánh dấu hoặc đóng ấn, triện. Do đó, khi mài son được phép mài (và phải mài) mạnh tay mới được (mạnh mẽ như đi “đánh giặc” vậy). Việc mài mực rất quan trọng. Thế nên ngày xưa có người ở làng Hạc Oa (nay thuộc TP Thanh Hóa) chuyên mài mực cho Tổng đốc Thanh Hóa Vương Duy Trinh, sau được hàm cửu phẩm, gọi là ông Cửu Mặc (ông Cửu phẩm mài mực).
-Mâm cao đánh ngã bát đầy
Mâm cỗ bày lắm món đặt chồng lên nhau bao giờ cũng đánh bại dễ dàng các mâm cỗ chỉ bày vài ba món dù đĩa nào cũng được đơm rất đầy. Hay dùng để chỉ rõ một lẽ thật: “Mâm cỗ bày lắm món bao giờ trông cũng bắt mắt hơn là mâm cỗ chỉ bày vài ba món được đơm đầy”.
Giải thích như vậy câu tục ngữ trở nên tầm thường quá. Cần chú ý hai khái niệm: mâm cao và bát đầy. Mâm cao là mâm được dọn ra ở vị trí cao (sang) nhất thường dành cho các vị chức sắc, các cụ cao niên hoặc người được tôn trọng trong làng xã (hay đình đám). Còn bát đầy được hiểu là đồ ăn thức uống không được dọn thành mâm (cỗ) mục đích chỉ cốt ăn uống cho no bụng. Do đó, cái “mâm cao” sang trọng giữa làng vẫn được người ta thích hơn là cái bát đầy ở xó bếp. Vì "Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp" kia mà ! Dân gian còn có câu: "Mâm cao, cỗ đầy", nghĩa là được cả danh và lợi: vừa sang trọng về vị trí, vừa thịnh soạn về các món ăn. Chữ "mâm cao" ở đây chính là mâm cao trong câu "Mâm cao đánh ngã bát đầy" chứ không phải là "mâm cỗ bày lắm món đặt chồng lên nhau" như cách giải thích của nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương.
-Mẻ không ăn cũng chết
Mẻ mà chẳng ăn thì cũng chết (nên có để dành được đâu mà cố để giành) Hay dùng để khuyên mọi người chớ có dè sẻn những thứ không thể để giành được mà uổng công.
Thực ra ở đây là mẻ không được ăn chứ không phải không ăn đến mẻ. Mẻ không phải là loại gia vị thiết yếu. Cho nên người ta chỉ nuôi mẻ bằng cơm nguội, cơm thừa, thậm chí cơm đã có mùi thiu mới đem cho mẻ (ngày xưa hiếm lương thực). Nếu thừa cơm thì cho mẻ ăn, không thừa thì thôi. Thế nên có câu thành ngữ Coi như mẻ (xem thường, xem khinh ai đó giống như mẻ). Có vẻ như mẻ thật dễ tính, ăn cũng được, không ăn cũng không sao. Tuy nhiên, thực tế, nếu mẻ không được ăn trong thời gian dài, lọ mẻ hết chất tinh bột để vi khuẩn gây men hoạt động thì mẻ cũng chết như thường. Câu tục ngữ trên đề cao tầm quan trọng của nhu cầu ăn uống của tất cả mọi sinh vật trong đời sống hàng ngày. Ai cũng phải ăn uống mới duy trì được sự sống. Vì đến dễ tính như mẻ kia không ăn cũng chết cơ mà !
-Mồ cha chẳng khóc khóc đống mối; mồ mẹ chẳng khóc khóc bối bòng bong.
Mồ cha chẳng khóc, lại khóc mấy nấm đất do mối đùn; mồ của mẹ chẳng khóc, lại khóc mấy cái búi bòng bong. Hay dùng để chê trách những kẻ quá tin vào lời đám thầy địa lý/thầy cúng tới độ chỉ đi than khóc các thứ vớ vẩn, mà chẳng thèm ngó ngàng gì tới mồ mả của cha mẹ mình.
“Bòng bong” ở đây được nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương chú thích là “búi xơ vót ra từ các đôi đũa tre cắm trên bát cơm cúng đặt trên quan tài người mới chết".
Nếu chỉ dừng ở việc diễn giải tục ngữ thì đúng. Nhưng thêm mấy dòng chú thích lại trở thành sai. Đũa tre cắm trên bát cơm cúng gọi là "đũa bông" chứ không phải là “bòng bong”. Có một loại gọi là bòng bong là phoi tre (kiểu như phoi bào nhưng dài mà mảnh hơn, quăn hơn) do người ra vót nan tre, nứa để đan đồ đựng rồi vò thành đống. Có câu "Rối như búi bòng bong" cơ mà ! Mấy cái xơ của đũa tre vót ra tuy cong tít nhưng một đầu vẫn dính vào chiếc đũa nên xơ nào ra xơ ấy chứ đâu có rối ? Còn bòng bong trong câu tục ngữ là một loại dây leo, hay mọc ở các bụi rậm, mầu nâu, mảnh như sợi miến mà dai, mọc quấn nhằng nhịt vào nhau. Câu “Rối như bối bòng bong” cũng được dùng để chỉ loại bòng bong này. Trở lại với câu tục ngữ. Cái tổ mối đùn nó lùm lùm gần giống như một nấm mồ vô chủ. Còn cái bụi rậm nhằng nhịt những búi (bối) bòng bong cũng tựa như một ngôi mộ bịt thất lạc, lâu ngày hóa hoang rậm. Thế nên, ông thầy đi tìm mộ mới chỉ vào đó để người ta khóc lóc, khấn vái, vì cứ ngỡ mộ tổ tiên ông bà bấy lâu không ai chăm sóc. Còn nếu khóc búi “bòng bong” là “búi xơ vót ra từ các đôi đũa tre cắm trên bát cơm cúng đặt trên quan tài người mới chết", thì lúc này con cháu nhà người ta đang than khóc chung quanh làm sao có thể nhầm ra mộ tổ tiên mình bị thất lạc được ?
-Một ngôi sao một ao nước Mỗi một ngôi sao hiện ra trên bầu trời đêm hôm trước (là điềm ngày mai trời sẽ trút xuống mặt đất) một ao đầy nước mưa.
Rất khó chấp nhận cách giải thích trên của Nguyễn Đức Dương. Bởi theo kinh nghiệm dân gian, nếu đêm hôm trước bầu trời đầy sao là dấu hiệu ngày mai trời sẽ không một gợn mây, nắng chang chang. Đâu có chuyện ngược đời, đêm hôm trước càng nhiều sao, ngày mai càng mưa lớn ?
Vậy, câu tục ngữ của nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương được hiểu như thế nào ? Nói như dân gian “đến trời cũng không thể hiểu nổi”. Bởi hình thức chính xác của câu tục ngữ là: Một sao, ao nước. Một sao nghĩa là không có ngôi sao nào. Có vẻ như thật vô lý. Nhưng “một” là từ Hán Việt có nghĩa như sau:
- “① Chìm đắm, bị nước tràn ngập gọi là một. ② Chết, mất rồi, có khi viết là 歿. ③ Hết, như một thế 沒世 hết đời. ||④ Không có, chế người không biết chữ gọi là một tự bi 沒字碑 ý nói trong lòng không có một chữ nào. ⑤ Mất tích, như mai một 埋沒 vùi mất, dẫn một 泯沒 tan mất, v.v.” (Hán Việt tự điển-Thiều Chửu).
- “Một 沒: Không, không có (một hữu 沒有)① Chìm, lặn: một nhập thủy trung 沒入水中 Chìm xuống dưới nước;...③ Ẩn, mất: (xuất một 出沒 ẩn hiện” (Tự điển Hán Việt - Trần Văn Chánh, lược trích)
Nghĩa của từ “một” trong Hán văn là như vậy. Thế nhưng trong ngôn ngữ hàng ngày, hoặc câu kết hợp Hán + Nôm, người ta có dùng “một” với nghĩa là không có, ẩn giấu, chìm lấp, mất không ? Thưa là có:
- Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của : “Một 歿. Chết, mất: (...) “Làm tờ một hạ: làm giấy khai về sự bị ăn trộm, ăn cướp, cho làng làm chứng”.
- Việt Nam tự điển - Hội Khai Trí Tiến Đức : “Một 沒 mất (không dùng một mình) một tích, mai một. Một thú: mất thú: đi chơi không có bạn thật là một thú”.
Kết luận: từ “một” trong câu tục ngữ Một sao, ao nước được hiểu là vắng, không có, chìm mất, ẩn mất. Tục ngữ dùng “một” với ý là sao trời bị chìm lấp, bị che lấp đi bởi mây đen. Một sao, ao nước được hiểu: Nếu sao đêm bị mây đen che lấp hết thì ngày mai mưa to, ao chuôm đầy nước. (Dị bản nhìn sao để đoán thời tiết: Đông sao thì nắng, vắng sao thì mưa; Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa).
Như vậy, do người sưu tầm (hoặc chính do nhà ngữ học) không hiểu tục ngữ “Một sao, ao nước” là gì nên tự ý chữa “một” (tính từ), thành “một” (số từ) và thêm ngôi cho "sao": “Một ngôi sao, một ao nước". Thế nhưng tục ngữ chẳng những không dễ hiểu mà trở nên bế tắc về cách hiểu. Cuối cùng soạn giả từ điển giải thích theo kiểu ngược đời, bất chấp thực tế khách quan.
-Lắm thầy rầy ma
Càng có lắm thầy (cúng) bao nhiêu thì lũ ma càng kéo tới quấy rầy bấy nhiêu. Hay dùng để khuyên mọi người chớ có tin những lời nhảm nhí của đám thầy cúng về ma quỷ (vì đó đều là những trò lừa đảo chỉ cốt moi tiền).
-Lắm thầy thối ma.
Càng có lắm thầy (lang) bao nhiêu thì các con bệnh càng dễ hóa thành ma thêm bấy nhiêu. Hay dùng để nhắc mọi người là chớ có tin vào các trò chữa chạy của đám lang băm mà dễ bị mất mạng.
-Lắm thầy thối ma; lắm cha con khó lấy chồng
Càng có lắm thầy (lang) bao nhiêu thì các con bệnh càng dễ hóa thành ma thêm bấy nhiêu; càng có lắm bậc làm cha (dự phần vào việc chọn chồng cho con) bao nhiêu thì các con càng khó lấy chồng thêm bấy nhiêu.
Hai dị bản “rầy ma” và “thối ma” là đồng nghĩa. Nhưng thật khó hiểu, “rầy ma”(lưu ý: khác ma rầy) được soạn giả giải thích là do “thầy cúng” mà“lũ ma kéo tới quấy rầy”, còn “thối ma”lại được giải thích là do “thầy lang” nên“các con bệnh dễ hóa thành ma”. (Con bệnh dù nặng đến mấy, khi chưa chết cũng không thể gọi là ma được). Và điều quan trọng cả hai cách hiểu này đều sai.
Câu Lắm thầy rầy ma, hay Lắm thầy thối ma đều liên quan đến cùng một “thầy” đó là thầy cúng. Nghĩa đen được hiểu: khi một người chết (không phải con bệnh như cách hiểu của NĐD) nằm đó, nếu để cho nhiều thầy cúng xem ngày giờ đưa ma, hay chọn huyệt để táng sẽ rất phiền hà. Vì thầy này nói được, thầy kia nói không, lắm ý kiến khác nhau, hậu quả người chết cứ nằm đó, muốn yên thân, mồ yên mả đẹp cũng không xong. Rầy ma là như thế. Thậm chí khi thầy phán chưa chọn được giờ tốt, ngày tốt thì người chết cứ nằm đó đợi, đến mức xác chết bắt đầu phân hủy (thối) còn chưa được chôn. Thối ma là như vậy.
-Đất sỏi có chạch vàng
Đất chỉ toàn là sỏi với đá, nhưng sinh sống bên dưới lại là những con chạch bằng vàng.
Có ai đúc chạch “bằng vàng” yểm dưới đất sỏi chăng ? Xin thưa“Chạch vàng” ở đây không phải là “những con chạch bằng vàng” mà là những con chạch béo vàng-thứ chạch thường sinh sống dưới đất bùn có nhiều màu mỡ.
Trong Từ điển tục ngữ Việt có những câu soạn giả suy diễn sai hoàn toàn. Ví dụ:
-Kẻ ăn rươi người chịu bão
Kẻ muốn ăn rươi nhưng lại bắt người khác phải dầm mưa bão để vớt về cho mình. Hay dùng với ẩn ý: nh. Ngồi mát ăn bát vàng.
Không ai đi “dầm mưa bão để vớt rươi” cả. Rươi là giống rất mẫn cảm với thời tiết, nên bao giờ nó cũng từ dưới bùn sâu chui lên trước khi thời tiết thay đổi. Giống rươi lại phải thật tươi ăn mới ngon. Thế nên, bắt đầu có rươi là dân đồng sác nhao ra đồng vớt ngay. Nếu gặp phiên chợ thì gánh chạy cho nhanh để kịp bán khi rươi còn sống, bò lúc nhúc. Bằng không cũng phải gánh vội đi bán ở các làng xã lân cận cho kịp. Khi rươi ươn, vỡ bụng, chảy gạch ra coi như hỏng. Thường người ta vớt được rươi lên, hoặc mua rươi về nấu ăn xong, nửa ngày, hoặc một ngày sau đó mới nổi mưa gió trái mùa như hiện tượng bão, gọi là “bão rươi” hoặc “mưa lấp lỗ rươi”. (Câu đố về rươi: Mỗi năm vài bận ra chơi, Làm cho lở đất long trời mới nghe). Chỉ ít dân đồng sác và mấy xã lân cận là được ăn rươi (do số lượng có hạn và rươi khó bảo quản để vận chuyển đi xa bán). Thế nhưng cả tỉnh, cả huyện phải chịu chung cảnh thời tiết mưa bão ấy. Kẻ ăn rươi người chịu bão là như vậy.
Mặt khác dịp rươi nổi lên theo quy luật thời tiết mà dân gian đã tổng kết là “Mùng năm tháng chín, đôi mươi tháng mười (mùng 5/9 và 20/10). Chú thích như soạn giả: “Ngày rươi từ dưới đáy sông lạch nổi lên mặt nước để sinh sản, nhiều nhất là vào hôm 20/9 và mồng 5/10 âm lịch hằng năm) là nhầm.
-Quạ ăn dưa bắt cò dãi nắng
Quạ muốn ăn dưa nhưng lại bắt cò phải dãi nắng (để kiếm dưa về cho mình). Hay dùng với ẩn ý: nh. Kẻ ăn rươi, người chịu bão.
Trong thực tế, làm gì có chuyện con quạ bắt con cò phải dãi nắng “để kiếm dưa về cho mình” ? Không nên dùng lời suy diễn thay cho giải thích câu tục ngữ.
Quạ là giống chim đa thực. Ngoài gà con, xác thối...chúng còn rất thích ăn các thứ quả như mít, dưa hấu…(vào mùa mít rừng chín, chúng khoét vỏ, chui đầu vào ăn, con nào con nấy đầu trọc lóc do bị nhựa mít “vặt” hết lông). Chìa khóa để giải mã câu tục ngữ trên là “Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”. Thời tiết nắng nhiều khiến quạ được chén những quả dưa ngọt lành. Trong khi đó, cò không ăn được dưa (loài chim này chỉ ăn tôm tép, cá con, côn trùng…) lại phải chịu chung đặc điểm thời tiết nắng nóng chang chang ấy (đôi khi làm cạn nước, chết hết cá tôm, ảnh hưởng đến môi trường kiếm ăn của cò).
Như vậy, hai câu “Kẻ ăn rươi, người chịu bão” và “Quạ ăn dưa, bắt cò dãi nắng” ý nói: lợi ích hoặc hoàn cảnh thuận lợi của (nhóm) người này, đôi khi (vô tình) gây trở ngại, khó khăn đối với (nhóm) người khác. Không thể hiểu và dùng với ẩn ý “Ngồi mát ăn bát vàng” như Nguyễn Đức Dương giải thích.
-Quan họ thịt gà; giỗ cha thịt ếch
(Thết các liền anh liền chị trong làng) quan họ thì nên dùng thịt gà; (làm giỗ cho cha thì nên dùng thịt ếch).
Cách giải thích sai lầm nghiêm trọng. Trong các lễ vật dâng cúng, con gà được xem là con vật hiến tế rất quan trọng. Thế nên, không có gà cúng, người ta còn có thể thay bằng quả trứng gà. Gà hay xôi gà là lễ vật sang trọng đối với cả người sống và người chết. Trong khi đó mặc dù thịt ếch thơm ngon, trắng như thịt gà, dân gian hay gọi là gà đồng (gọi theo tên chữ của ếch là điền kê田雞). Nhưng thịt ếch đâu có được coi là loại đồ ăn “ra tấm, ra miếng”; càng không phải là phẩm vật dâng cúng thể hiện sự kính trọng đối với tiền nhân. Do đó, giảng rằng: “(làm giỗ cho cha) thì nên dùng thịt ếch” là cách giải thích liều, không hiểu gì về phong tục tập quán của người Việt. Mặt khác các liền anh, liền chị trong làng quan họ thì liên quan gì đến giỗ cha ? Tôi nghi ngờ văn bản này.
Ở Thanh Hóa, câu tục ngữ này có hình thức là: Con họ thịt gà; giỗ cha thịt ếch. Cách phát âm của người Thanh Hóa, con phát âm gần giống như cu...ân (quân). Con họ tức là con cháu trong họ. Vì không hiểu con họ là gì nên người sưu tầm tục ngữ (hoặc soạn giả) chữa “quân họ” (con họ) thành “quan họ” rồi giảng sai hoàn toàn nội dung. Câu tục ngữ đang bàn nói cách cư xử trái với lẽ thường, đáng phê phán: Đối với hạng con cháu trong họ thì làm thịt gà thết đãi; đến khi giỗ cha mình (ngày rất quan trọng) lại làm thịt ếch để cúng. Dị bản: Có khách làm thịt kha (gà) giỗ cha làm thịt ếch.
-Mưa rừng cọ; gió rừng thông
(Gặp) mưa trong rừng cọ cũng như gió trong rừng thông (thì chớ có lo ướt cũng như lo lạnh vì đã được cọ cũng như thông che chắn hết cho rồi).
Giải thích như vậy là không hiểu.Thực ra, trong rừng cọ, chỉ cần mấy hạt mưa đã nghe tiếng lào rào, lộp bộp rất lớn do hàng ngàn giọt mưa rơi trên tàu lá cọ (lá cọ bản rộng, dày, cứng). Và trong rừng thông, chỉ cần thoảng làn gió đã nghe vi vút hoặc tiếng rít lên như muôn ngàn ngọn roi quật vào không khí, (do thông là cây lá kim). Thế nên thơ, nhạc hay ví thông reo, thông hát, thông ru là vậy. Câu tục ngữ trên đưa ra nhận xét: Tiếng mưa trong rừng cọ nghe rất lớn, tiếng gió trong rừng thông nghe rất mạnh (so với thực tế).
Nuôi lợn ăn cơm không; nuôi tằm ăn cơm nhộng
Nuôi lợn (chẳng mấy khó nhọc nên) chỉ được ăn cơm không có thức ăn; nuôi tằm (vốn khó nhọc) nên sẽ được ăn cơm với cả nhộng nữa.
Ý dân gian không ám chỉ nghề nào vất vả, khó nhọc hơn nghề nào, mà ý nói sự khác biệt giữa hai nghề. Nghề nuôi lợn giống như ống tiết kiệm, dồn mãi tới lúc đầy (lợn béo) mới xẻ thịt hoặc bán một lần duy nhất, không thể mỗi bữa xẻo ra vài miếng thịt mà nấu ăn dần. Tuy nhiên, đối với nghề nuôi tằm, mỗi lứa tằm vài ba tháng, tằm kéo kén ươm tơ có nhộng ăn, người nuôi được thu sản phẩm phụ, trong khi nuôi lợn ngày xưa cả năm mới được một lứa. Nghĩa là mối lợi của nghề nuôi tằm có thể khai thác dần, rải rác mà không cần phải đợi đến lúc ươm, dệt thành tơ lụa mới có.
-Rau cải làng Tiếu nấu nước điếu ăn cũng ngon
Rau cải (trồng ở ) làng Tiếu (vốn ngon tới độ chỉ) nấu với nước điếu thôi ăn vẫn cứ thấy ngon.
Cách hiểu và diễn giải của soạn giả khi dùng “chỉ”, “thôi” trong câu khiến bạn đọc hiểu lầm “nước điếu” là loại nước lã bình thường (nấu món canh suông) nhưng khi có rau cải làng Tiếu để nấu thì ăn vẫn cứ thấy ngon. Tuy nhiên, nước điếu có mùi hôi, khắm, vị đắng chát rất khó tả. Lỡ đánh đổ chút ít ra nhà, đến cả người vốn nghiện thuốc lào cũng không chịu nổi cái mùi của nó. Nước điếu độc nên người ta còn dùng để tắm trừ ghẻ cho chó. Thế mà rau cải làng Tiếu thơm ngon, ngọt lành tới độ có thể hóa giải được cả nước điếu, khiến khi nấu canh rau cải với thứ nước “kinh khủng” đó, ăn cũng (vẫn) ngon. Như thế câu tục ngữ phải được diễn giải là: Rau cải làng Tiếu dẫu có nấu với nước điếu ăn vẫn ngon.
-Tát nước theo mưa
Chỉ bắt tay tát nước khi thấy trời bắt đầu đổ mưa (cho đỡ hao sức). Hay dùng với ẩn ý: nh. Dậu đổ bìm leo.
Câu này soạn giả giải thích sai gần giống cái sai của GS Nguyễn Lân:“Tát nước theo mưa. Làm việc gì trong điều kiện hết sức thuận lợi”( Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam-SĐD) Tuy nhiên, kinh nghiệm chống hạn mà đợi trời mưa để tát nước cho “thuận lợi” (Nguyễn Lân), “cho đỡ hao sức” (Nguyễn Đức Dương) thì có khi cây trồng chết khô mất rồi ! Hơn nữa khi trời đã đổ mưa rồi còn ai tát nước làm gì ?
Thành ngữ nói cách làm gian dối, dựa dẫm, ăn theo. Lúc hạn hán thì chẳng thấy đâu, khi trời có mưa thì vờ tát nước, khiến ruộng có nước do trời mưa đem lại nhưng lại được tiếng là do công tát nước mà có, hòng“mập mờ đánh lận con đen”. Câu này gần nghĩa với câu “Dây máu ăn phần”, không phải gần nghĩa câu “Dậu đổ bìm leo” như soạn giả giải thích.
Thông thường, một câu tục ngữ có thể được hiểu theo nhiều nghĩa. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa nào cũng phải đảm bảo tính biện chứng. Trong Từ điển tục ngữ Việt, soạn giả Nguyễn Đức Dương có hẳn một hạng mục (được ghi ngoài bìa sách) là “dịch” một số câu tục ngữ gốc Hán. Soạn giả không đưa ra phần nguyên văn chữ Hán, cũng không chú thích nghĩa từ vựng trong câu dẫn đến sai sót khá nghiêm trọng bởi hiện tượng đồng âm, dị nghĩa; đồng tự, đa nghĩa.Ví dụ:
-Kỵ hổ nan hạ
Tránh mặt hổ thì khó mà hạ sát được nó.
Thay vì dùng chữ kỵ 騎 là cưỡi, soạn giả lại đưa ra chữ “kỵ” 忌 là kiêng tránh, sợ; chữ hạ 下với nghĩa là xuống, lại được chọn hạ 下 với nghĩa là “hạ sát”. Thoạt nghe cũng có lý. Thế nhưng, giết hổ mà chọn cách đối mặt với hổ là hạ sách, là bất đắc dĩ. Người ta có thể “tránh mặt hổ” mà vẫn giết được hổ dễ dàng bằng cách đặt bẫy, đánh bẫy, nấp bắn. Vậy soạn giả nghĩ sao ? Cần trả lại nghĩa vốn có (đã đi vào lời ăn tiếng nói hàng ngày của dân gian) là:Cưỡi lên lưng hổ thì khó xuống (hay nói Thế cưỡi hổ, hoặc Ở thế cưỡi hổ).
-Lộng giả thành chân
Cái giả hễ cứ được mặt sức hành hoành thì dần dà rồi sẽ hóa thành cái chân.Hay dùng để nhắc mọi người đừng để cho cái giả mặc sức hoành hành nhằm tránh xảy ra tình trạng thực giả lẫn lộn.
Chữ lộng 弄 ở đây có nghĩa là giở thủ đoạn, lại được soạn giả hiểu nôm na là lộng hành rồi giải thích “Cái giả hễ cứ được mặt sức hoành hành thì dần dà rồi sẽ hóa thành cái chân”. Nghĩa này có thể chấp nhận được.Tuy nhiên, câu tục ngữ phải chữa lại là “Giả lộng thành chân” mới đúng với ngữ pháp tiếng Hán. Bởi vậy, câu tục ngữ “Lộng giả thành chân” phải được hiểu là: Dùng thủ đoạn biến giả thành thật. (Có khi chữ “lộng” cũng được dùng với nghĩa “đùa cợt”: Vờ đùa cợt để biến giả thành thật).
-Lương y đa kỳ tật
Các viên thầy thuốc giỏi đa phần đều có lắm thói quen kỳ lạ.
Chữ “tật” 疾 nghĩa là bệnh, “kỳ tật” 奇疾 là bệnh lạ, bệnh nặng, bệnh hiểm ác, nhưng bị soạn giả hiểu nôm na “kỳ tật” là “thói quen kỳ lạ”.
Thực tế, có nhiều thầy thuốc giỏi, chữa bệnh cho nhiều người nhưng chính mình lại hay bị những chứng bệnh nan y, bệnh lạ mà bản thân không khám, chữa cho mình được. Thế nên, câu thành ngữ này phải được dịch là: Thầy thuốc giỏi hay bị chứng bệnh (lạ) hiểm ác, nói đến sự trớ trêu của nghề thầy thuốc, “Dao sắc không gọt được chuôi”.
-Mệnh do ngã lập; phúc tự kỷ cầu
Số mệnh là do tự mình định đoạt lấy (chứ đâu phải do trời sắp xếp sẵn); phúc đức là do mình tự cầu xin lấy (chứ đâu phải do trời tự ý ban cho).
Nếu nói “phúc đức là do mình tự cầu xin lấy” chỉ có nghĩa không cần người khác cầu xin hộ, nhưng vẫn có nghĩa là bản thân mình không tự quyết định được mà phải đi cầu xin người khác mới có.
Như vậy, chữ “cầu” ở đây phải được hiểu nghĩa là tìm, không thể hiểu nghĩa là cầu xin như dịch giả nhầm lẫn. Câu tục ngữ được dịch là: Số mệnh tự ta định đoạt, hạnh phúc tự mình tìm lấy.
Trong sách có rất nhiều câu tục ngữ mang tính địa phương. Có lẽ do sưu tầm, tuyển chọn từ một số sách (không có phần giải thích) lại thiếu am hiểu thực tế nên soạn giả đã áp dụng phương pháp phi khoa học, đó là phỏng đoán, dẫn đến sai nhiều hơn đúng. Ví dụ:
-Măng Kẻ Hếch [?] ; ếch Kẻ Chai [?]; khoai Chiềng Mỹ [?]
(Cá) măng (thì ít thấy nơi nào ngon như loại sống ở) Kẻ Hếch; ếch (thì ít thấy nơi nào béo như là loại sống ở) Kẻ Chai; khoai lang (thì ít thấy nơi nào bùi như là loại trồng ở) Chiềng Mỹ.
Trong câu có 3 địa danh thì cả 3 địa danh soạn giả đều (đặt dấu ?) tỏ ý không biết nó nằm địa phận tỉnh, huyện, xã... nào, đặc điểm gì làm nên câu tục ngữ ấy nhưng vẫn giải thích. Thử hỏi “măng” đây có đúng là “cá măng” hay là măng tre, luồng ? “Khoai” là “khoai lang” hay là cá khoai ? Nếu “măng” được soạn giả đoán là cá măng, thì “khoai” cũng có thể là cá khoai lắm chứ ? Hoặc “ếch Kẻ Chai” liệu có phải ý nói “ếch béo” hay thực tế là nhiều ếch, hoặc ếch to mới đúng ? Cách làm này chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều trong sách Từ điển tục ngữ Việt.
Lạm dụng phương pháp phỏng đoán, tất có lúc phạm sai lầm không thể biện hộ. Ví dụ:
-Bồ Bất Căng, năng [?] Kẻ Chè.
Bồ thì ít thấy ở đâu đan tốt như là Bất Căng; năng [?] thì ít thấy ở đâu làm khéo như là Kẻ Chè.
Ta thấy trong câu này, soạn giả không hiểu “năng” là cái gì nhưng vẫn “tự tin” giải thích “năng [?] thì ít thấy ở đâu làm khéo như là Kẻ Chè”. Hơn nữa, Bất Căng không phải chỉ nổi tiếng do “đan bồ tốt” mà là đất chuyên nghề đan lát; “bồ” chỉ là một sản phẩm đại diện khi nói về nghề đan ở đây mà thôi. Theo đó, Kẻ Chè cũng không chỉ được biết đến bởi nghề đúc “năng” (tiếng Thanh Hóa gọi cái nồi 2 bằng đồng là “năng”) mà sản phẩm này chỉ là ví dụ cho nghề đúc đồng nổi tiếng (nồi niêu, xoong, chảo, mâm, thậm chí cả... trống đồng) của làng Chè mà thôi.
Nem xứ Huế; quế xứ Thanh
Nem (thì ít thấy ở đâu gói ngon như ở) Huế; quế (thì ít thấy ở đâu lắm như ở) Thanh Hóa).
Vẫn là đoán mò. Và cách giải thích này nghe ra rất có lý...đối với những người không biết ! Nhưng, quế Thanh Hóa nổi tiếng không phải do “ít thấy ở đâu lắm như ở” Thanh Hóa mà là không ở đâu tốt bằng Thanh Hóa. (Quảng Ngãi, Yên Bái, Nghệ An nhiều quế không kém gì Thanh Hóa). Quế Thanh (thường gọi là Quế Ngọc châu Thường-vùng đất huyện Thường Xuân ngày nay) được cổ kim đánh giá là tốt nhất bởi thứ tinh dầu đặc biệt của nó. Ngày xưa vua nhà Nguyễn thường dùng quế Thanh để ban thưởng cho các quan (xem Đại nam thực lục - Quốc sử quán triều Nguyễn)
Phần chú thích địa danh, rất nhiều câu soạn giả vẫn còn đặt dấu chấm hỏi (do chưa tìm hiểu, khảo cứu) khiến cho độc giả cảm tưởng, mình đang được đọc một bản thảo chưa hoàn chỉnh. Xin đưa ra một vài ví dụ:
Lê Chằm Vạc; Mạc Đại An
Chú thích: “Chằm vạc dt. Ngôi làng nằm trên địa phận xã...[?], huyện...[?], tỉnh Hải Dương hiện thời. Đại An dt. Ngôi làng nằm trên địa phận xã ...[?] huyện Ý Yên/ Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định hiện thời. (tr.511) Hoặc Đinh Cao Bộ; điền Khê Tang. Chú thích: “Cao Bộ dt. Ngôi làng nằm trên địa phận xã...[?], huyện...[?] tỉnh Hà Tây hiện thời. Khê Tang dt. Ngôi làng nằm trên địa phận xã...[?], huyện...[?] tỉnh Hà Tây hiện thời. Rồi Đinh Quảng Nguyên, điền Quảng Tái. Chú thích:“Quảng Nguyên dt. Ngôi làng nằm trên địa phận xã...[?], huyện...[?], Quảng Tái dt. Ngôi làng nằm trên địa phận xã...[?], huyện...[?], (tr. 335) v.v...
Trong Từ điển tục ngữ Việt, mục “Nhận diện tục ngữ” Tiến sĩ Nguyễn Đức Dương cho rằng có những sách “quá xem nhẹ chất lượng và bỏ ngoài tai lời khuyên của ông bà ta được đúc kết trong câu châm ngôn: “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Thế nhưng chính tác giả (không rõ do không phân biệt được thế nào gọi là dị bản, hay cố tình muốn cho sách dày thêm) dẫn ra quá nhiều những câu không đáng gọi là dị bản. Mặt khác giải thích đi, giải thích lại một câu đã quá rõ nghĩa là điều hoàn toàn không cần thiết. Xin được đưa ra một vài ví dụ:
Câu “Ao sâu béo cá; độc dạ khốn thân” được Nguyễn Đức Dương đưa ra tất cả 11 “dị bản”.Thế nhưng chúng ta phải đọc thật kỹ, thật chậm để so sánh mới phân biệt được chúng “dị’ ở điểm nào:
Ao sâu béo cá; độc dạ khốn thân
Ao mà sâu thì tôm cá ắt càng béo tốt; lòng dạ mà hiểm độc thì ắt phải chịu đủ mọi thứ khốn đốn ở đời. Hay dùng để khuyên mọi người hãy ăn ở cho nhân đức nhằm tránh phải hứng chịu mọi thứ khốn đốn ở đời.
Ao sâu béo cá, hiểm dạ hư thân
Ao càng sâu thì tôm cá ắt càng béo tốt; lòng dạ càng hiểm độc thì thân ắt càng trở nên hư đốn thêm. Hay dùng với ẩn ý nh. Ao sâu béo cá, độc dạ khốn thân.
Ao sâu tốt cá; độc dạ hư mình
Như Ao sâu tốt cá; độc dạ hư thân.
Ao sâu tốt cá; độc dạ hư thân
Ao càng sâu thì tôm cá ắt càng béo tốt; lòng dạ càng hiểm độc thì thân ắt càng trở nên hư đốn them. Hay dùng với ẩn ý nh. Ao sâu béo cá độc dạ khốn thân.
Ao sâu tốt cá; độc dạ khốn thân
Ao càng sâu thì tôm cá ắt càng béo tốt; lòng dạ càng hiểm độc thì thân ắt sẽ phải chịu đủ mọi thứ khốn đốn ở đời. Hay dùng với ẩn ý: nh. Ao sâu béo cá; độc dạ khốn thân.
Ao sâu tốt cá; hiểm dạ hư mình
Nh. Ao sâu tốt cá; hiểm dạ khốn thân.
Ao sâu tốt cá; hiểm dạ hư thân
Nh. Ao sâu tốt cá; hiểm dạ hư mình.
Ao sâu tốt cá; hiểm dạ khốn thân
Ao càng sâu, thì tôm cá ắt càng béo tốt; lòng dạ càng hiểm độc thì thân ắt càng phải chịu đủ mọi thứ khốn đốn ở đời. Hay dùng với ẩn ý: nh. Ao sâu béo cá; độc dạ khốn thân.
Sâu ao lắm cá; độc dạ hư mình
Nh. Sâu ao lắm cá, độc dạ hư thân.
Sâu ao lắm cá; độc dạ hư thân
Ao càng sâu thì càng có lắm tôm cá; lòng dạ càng hiểm độc thì thân càng phải hứng chịu lắm điều chẳng may.
Sâu ao lắm cá; độc dạ khốn thân
Ao càng sâu thì càng có lắm tôm cá; lòng dạ càng độc ác thì thân càng phải hứng chịu lắm điều chua cay.
Cứ theo cách đảo từ, thay từ đồng nghĩa để tạo ra “dị bản” thì câu tục ngữ còn có thể nhân ra rất nhiều bản nữa, ví dụ:
-Hoán từ tốt cá thành cá tốt, lắm cá thành cá lắm,đổi từ lắm cá thành nhiều cá…rồi lần lượt cho kết hợp với câu độc dạ, hiểm dạ, rồi lại hư thân, hư mình, khốn thân. Như “Ao sâu cá tốt, độc dạ khốn thân” rồi “Ao sâu cá lắm, độc dạ khốn thân” hoặc “Sâu ao nhiều cá, độc dạ khốn thân”.
-Hoán từ độc dạ thành dạ độc,hiểm dạ thành dạ hiểm rồi lần lượt cho kết hợp với câu có từ khốn thân, hư mình, hư thân,v.v…chúng ta sẽ có hàng trăm cái gọi là “dị bản” mà thực chất chỉ là cách dùng từ đồng nghĩa của người sử dụng câu tục ngữ mà thôi.
Chúng ta còn bắt gặp ở rất nhiều trường hợp khác:
Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt đất
Ăn kỹ lưỡng thì (bụng sẽ cảm thấy no lâu (vì đỡ mất công giành giật); cày cho sâu thì đất (dễ tơi xốp hơn, nên cũng dễ) tốt lên.
Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa
Ăn kỹ lưỡng thì bụng sẽ cảm thấy no lâu (vì đỡ mất công giành giật) cày cho sâu thì (đất dễ tơi xốp hơn nên) lúa cũng nhờ thế mà trở nên tốt hơn).
Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt ruộng
Ăn từ tốn thì bụng sẽ cảm thấy no lâu (vì miệng vẫn còn lưu giữ được mọi vị ngon của các thứ được ăn); còn cày sâu thì (đất dễ tơi xốp hơn nên) ruộng cũng nhờ thế mà trở nên tốt hơn.
Nhân tiện xin nói luôn: cách giải thích mấy “dị bản” trên cũng để lại nhiều thắc mắc cho độc giả. Ví dụ: Vì sao hai bản đầu giải thích “Ăn kỹ no lâu” là vì “đỡ mất công giành giật” đến bản thứ ba cũng vẫn là “Ăn kỹ no lâu” lại được giải thích là “vì miệng vẫn còn lưu giữ được vị ngon...” Hoặc sao lại “đỡ mất công giành giật”; ai “giành giật” với ai ?
Nhìn chung, với sách biên soạn, (đặc biệt là lĩnh vực tục ngữ, thành ngữ) khó tránh khỏi sai sót. Tuy nhiên, tỉ lệ sai sót, mức độ sai sót, hạn chế như Từ điển tục ngữ Việt của Tiến sĩ Nguyễn Đức Dương là quá lớn mà trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi không thể nêu hết (2) Nếu đọc kỹ, chúng ta sẽ còn nhận thấy không ít lỗi về từ vựng, cách giải nghĩa, cách diễn đạt, từ ngữ,v.v... Đối với những cái được của Từ điển tục ngữ Việt phần nhiều do soạn giả tiếp thu được thành tựu của người đi trước, tôi nghĩ không cần nêu lên, vì độc giả có thể dễ dàng ghi nhận./.
(Một phần của nội dung bài viết đã đăng Tạp chí Văn hóa dân gian - Viện nghiên cứu Văn hóa số 4 tháng 8/2013)
Chú thích:
(1)Từ điển tục ngữ Việt - tác giả Tiến sĩ Nguyễn Đức Dương - Trung tâm biên soạn từ điển Ngôi Sao - Ban biên soạn từ điển đơn ngữ - Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh - 2010.
(2) Bài này lược trích từ sách “Phê bình từ điển” - Hoàng Tuấn Công (Phê bình một số cuốn từ điển tiếng Việt và Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam) chưa in.
- Những sách đã dẫn và tham khảo:
1,“Đại Nam quấc âm tự vị” (Dictionnaire ANNAMMITE) Huình Tịnh Paulus Của - Sài Gòn 1895.
2,Việt Ngữ Tinh nghĩa từ điển - Long Điền Nguyễn Văn Minh -NXB Quảng Vạn Thành- Hà Nội 6/1950.
3,Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam - GS Nguyễn Lân (NXB Văn Hóa - 1989)
4,Việt Nam tự điển - Hội Khai Trí Tiến Đức - Nhà in Trung Bắc Tân Văn - 1931 (bản Scan của vietnamtudien.org )
5, Từ điển An Nam-Lusitan-La tinh (Thường gọi Từ điển Việt - Bồ - La) Alexandre De Rhodes - Phiên dịch: Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính - NXB Khoa Học Xã Hội - 1991.
6, Tự điển Hán Việt - Trần Văn Chánh -NXB Từ điển bách khoa-2011).
7, Điển Cố văn học - Đinh Gia Khánh chủ biên - Nhà XB Khoa học xã hội - Hà Nội 1977.
8, Hán Việt tự điển - Thiều Chửu - NXB Thành phố Hồ Chí Minh - 2004.
9. Hán Việt Từ điển - Đào Duy Anh biên soạn - Hãn Mạn Tử hiệu đính - NXB Trường Thi - Sài Gòn 1957.
10. Khang Hy tự điển - 2002 (sách ngoại văn xuất bản tại Trung Quốc)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét