Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014

Tư liệu về Albert CLAVIER, người Pháp, Thiếu tá QĐND Việt Nam (Triệu Xuân Info)

Những bài báo
14.03.2011
Tư liệu
Albert CLAVIER, người Pháp, Thiếu tá QĐND Việt Nam vừa từ trần!
Ở một làng quê hẻo lánh, ven vùng phủ sóng điện thoại, liên lạc bằng điện thoại di động rất khó. Cũng may vào mạng internet dễ hơn. Sáng nay, tôi nhận được đôi dòng ngắn của nhà thơ Dương Tường gửi từ Hà Nội: Albert Clavier ra đi 21g55 ngày 9 tháng ba.


Chắc Albert Clavier từ trần ở nhà dưỡng lão gần nhà ở Saint-Laurent-le-Pont (tỉnh Isère), ở tuổi 84. Hè năm ngoái, cũng với bà Dominique de Miscault, nghệ sĩ nhiếp ảnh, chúng tôi đã lái xe 600 km đến thăm ông. Lần trước, tôi được gặp ông lần đầu tiên, là nhờ đi cùng với anh Dương Tường, người bạn cố tri của Albert Clavier.


Để hiểu tình bạn giữa hai người, tôi xin mời độc giả đọc lại bài Như Edith Piaf hát mà Dương Tường đã viết cho số Xuân Diễn Đàn 2009.


Con người và cuộc đời của ông, tôi đã có dịp phác họa nhân đọc hồi kí De l'Indochine coloniale au Vietnam libre / Je ne regrette rien (nhà xuất bản Les Indes Savantes, Paris, 2008) -- Je ne regrette rien là bàỉ ca nổi tiếng của Edith Piaf, nên nhà thơ Dương Tường đã nhắc trong bài viết kể trên.


Trong bài điểm sách, tôi đã nói đến ba cuộc đời của người chiến sĩ già: (1) 1927-1947: ra đời và lớn lên ở vùng sơn cước Vercors, 13 tuổi phải bỏ học đi chăn bò, làm tá điền, rồi tham gia kháng chiến, vào Đảng cộng sản; (2) 1947-1964: nhập ngũ, vào quân đội của nước Pháp mới giải phóng, nhưng lại bị đưa sang Đông Dương làm công việc bẩn thỉu của quân đội nazi, Clavier đào ngũ, tham gia kháng chiến (bị tòa án binh kết án tử hình vắng mặt); sau Hiệp định Genève về Hà Nội, làm báo, rồi rời Việt Nam vì bất đồng ý kiến trong cuộc đối đầu Trung-Xô; (3) 1964-1995: sống ở Budapest trước khi về Pháp nghỉ hưu, bắt đầu làm việc cho Liên đoàn thanh niên dân chủ thế giới rồi trở thành nhà kinh doanh.


Cuộc đời đầy ắp ấy tưởng đã chấm dứt với những năm tháng làm ông ngoại, khi con gái ông (France - Thiên Nga) mang con từ Hà Nội sang đoàn tụ. Nhưng hè năm ngoái, đến thăm Albert Clavier ở nhà dưỡng lão, tôi được chứng kiến cuộc đời thứ tư của ông. Bị xuất huyết não, ông không đi lại được, đã vào nhà dưỡng lão. Nhưng khi tôi đưa Dương Tường xuống thăm ông thì Clavier đã trở về nhà, vì không chịu nổi không khí tinh thần của nhà dưỡng lão -- điều này, tôi hiểu được, sau mấy năm chăm lo cho Georges Boudarel ở ba nhà dưỡng lão Pantin, Paris, Les Lilas. Cuộc trở về cũng chỉ là tạm bợ, vì khi chúng tôi đến nhà, ông ở trên lầu, phải ném chìa khóa qua cửa sổ để chúng tôi mở cửa vào nhà. Ông không thể xuống cầu thang, và nhận thấy phải chấp nhận trở lại nhà dưỡng lão, khi nào họ có chỗ cho ông!


Tháng 6.2010, cùng với Dominique de Miscault, chúng tôi lái xe xuống thăm ông ở nhà dưỡng lão. Trên đường, tôi rất lo, không biết làm sao ông chấp nhận được cuộc sống và không khí một cộng đồng mà hơn 80% những cụ già không còn tự chủ về vật chất và nhiều khi tinh thần. Mừng sao, chúng tôi thấy ông vẫn tinh anh, nhạy bén, tuy ngồi xuống, đứng dậy, đi lại hết sức khó khăn. Sau một phút chào hỏi, chúng tôi khám phá được bí quyết: vào nhà dưỡng lão được ít ngày, ông được bầu làm chủ tịch ban đại diện "lão trại viên". Và hàng ngày, Clavier đối thoại, đấu tranh với ban giám đốc để cải thiện đời sống trong nhà dưỡng lão. Chỉ vào cái máy truyền hình màn ảnh phẳng ngự trị ở cuối phòng khách kiêm phòng ăn, ông mỉm cười khoe: "Phải đấu với tay giám đốc cả tuần mới chịu đặt cái máy này để mọi người ngồi xem giải Euro, thay vì ngồi ru rú một mình trong phòng". Cuộc đấu tranh mà ông đang tiến hành đầu tháng sáu là thuyết phục giám đốc chấp nhận tổ chức sự "giao lưu" giữa nhà dưỡng lão và các trường mẫu giáo, trường tiểu học gần đó. Điều này không có gì mới, nhiều nơi đã bắt đầu, đem lại kết quả thỏa đáng cho cả tuổi già lẫn trẻ nhỏ, phá rào cái "ghetto" mà xã hội Âu Châu đã dựng nên để giam kín người già, loại trừ tuổi già ra khỏi xã hội. Clavier than với chúng tôi: "Tay giám đốc này bảo thủ lắm".


Hôm nay, Clavier không còn nữa. Tôi không biết trước khi mất, ông đã thuyết phục được "tay bảo thủ" đó chưa. Chỉ biết, con người ấy, ở tuổi ngoài tám mươi, thanh thản như một nhà hiền triết, vẫn mỗi ngày, tiếp tục những cuộc chiến đấu nho nhỏ. Vì người. Vì nhân phẩm con người.





Nguyễn Ngọc Giao





Đọc hồi kí ALBERT CLAVIER: Từ Đông Dương thuộc địa


đến nước Việt Nam tự do. De l'Indochine coloniale au Vietnam libre


Je ne regrette rien. Ed. Les Indes Savantes, Paris, 2008


Nguyễn Ngọc Giao


Hồi kí của một người đã sống ba cuộc đời, sau bao đắng cay, vẫn coi Việt Nam là "tổ quốc thứ hai"


Mùa xuân 1964, cách nhau vài ngày hay vài tuần, có ba người Pháp rời Hà Nội từ sân bay Gia Lâm hay nhà ga Hàng Cỏ đi châu Âu. Họ không phải là du khách (năm ấy, miền Bắc Việt Nam không có du khách). Họ cũng không phải là khách Pháp đến Việt Nam rồi về, như một vài nhà ngoại giao Pháp hay đại diện Đảng cộng sản (chẳng hạn, ông François Billoux, uỷ viên Bộ chính trị, đến Hà Nội cuối tháng 4.1964). Họ cũng không phải là những tù binh hay hàng binh Pháp từ thời 9 năm kháng chiến (những người ấy đã rời Việt Nam mười năm về trước, sau Hiệp định Genève 1954). Ba người ấy là Georges Boudarel, Albert Clavier và Jean Tarago. Họ đã đến Việt Nam từ cuối những năm 1940 như một quân nhân (Clavier, hạ sĩ quan và Tarago, đại uý) hay một viên chức (Boudarel, giáo sư triết học ở Lycée Marie Curie). Là những người cộng sản, họ quyết định đứng sang hàng ngũ Việt Minh, chống lại cuộc chiến tranh thực dân. Đối với họ, đó là sự chọn lựa phù hợp với tinh thần “quốc tế vô sản”, và cũng là trung thành với lí tưởng “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” của Cách mạng Pháp và của "Cộng hoà Pháp".


Đối với chính quyền và quân đội Pháp thời ấy, đó tất nhiên là hành động «phản quốc»: cả ba đã bị toà án quân sự tuyên án tử hình vắng mặt.


Năm 1964, mười năm sau khi tiếng súng chấm dứt trên chiến trường Đông Dương (và cũng đã chấm dứt được 2 năm ở Algérie). Nhưng cái án tử hình vẫn treo lửng lơ trên đầu, họ không trở về quê hương được. Boudarel sẽ ở Praha, làm việc cho Liên đoàn các công đoàn thế giới (FSM) cho đến năm 1967, khi tổng thống De Gaulle kí sắc lệnh ân xá cho “tất cả những tội phạm trong hai cuộc giao tranh ở Đông Dương và Algérie” (đây là cách hoà giải với phe cực hữu đòi giữ “Algérie thuộc Pháp” đến cùng, và từng tổ chức phiến loạn, thậm chí âm mưu ám sát ông). Tarago lưu vong ở Đông Berlin. Còn Clavier ở Budapest, bước đầu làm việc cho FMJD (Liên đoàn Thế giới Thanh niên Dân chủ).


Ngày nay, Boudarel và Tarago đã từ trần. Clavier là chứng nhân cuối cùng của một cuộc “phiêu lưu” nhân bản trong một thời đại đầy “âm thanh và cuồng nộ”. Hồi kí “Từ Đông Dương thuộc địa đến nước Việt Nam tự do” kể lại cuộc đời của Albert Clavier.


*


Thực ra, có thể nói Clavier đã sống ít nhất ba cuộc đời.


Cuộc đời thứ nhất: từ 1927 đến 1947. Hai mươi năm thôi, nhưng chàng trai Albert dường như đã trải qua những thử thách quá tải cho một kiếp người bình thường: sinh ra trong một sơn thôn vùng Vercors (sau này sẽ là căn cứ kháng chiến), cha là một cố nông, đi làm thợ, chết ở tuổi 70 lúc Albert 5 tuổi, mẹ ở vậy, làm vú, nuôi 5 đứa con. Albert là con út, học khá, được các anh chị bỏ học sớm, đi làm, để cho em út cắp sách đến trường, say mê đọc Những người cùng khổ của Victor Hugo. Cho đến năm 13 tuổi, phải bỏ học, đi làm thuê. Trước đó một năm, vào Đảng cộng sản (do người anh Henri giới thiệu) ít lâu trước khi đảng này bị cấm (1939). Thế chiến bùng nổ, Pháp bị Đức quốc xã chiếm, anh Henri tham gia kháng chiến, bị bắt, đi đày Buchenwald. Kati, người bạn gái đầu tiên của Albert, gốc Do Thái, bị bọn “dân vệ” bắt đi, biệt tích... Nước Pháp được giải phóng, không khí hồ hởi, nhưng đời sống chật vật, chàng trai 17-18 tuổi theo bạn đầu quân, một phần vì không biết làm gì, một phần vì muốn phiêu lưu. Thế là vào “pháo binh thuộc địa”. Nhưng cái gọi là “biến cố Đông Dương” đã bùng nổ. Anh Henri từ Buchenwald trở về, da bọc xương, mắng thằng em trai: “Mày định sang đó lập lại thuộc địa sao ?”. Mấy lần Albert trốn trại bỏ ngũ để tránh lệnh sang Đông Dương, đều bị tóm trở lại, phạt tù, cuối cùng, một đêm tháng 3.1947, bị đưa lên tàu đậu bến Marseille: “Ta đi thăm Hồ Chí Minh. Bao nhiêu 'congai' đang đợi kìa!”.


Cuộc đời thứ nhì: 1947-1964.


Ở trên đã nói Albert là “cộng sản” từ năm 12 tuổi. Nhưng vừa “vào đảng” thì đảng bị cấm. Những năm nước Pháp bị chiếm đóng, ở một vùng hẻo lánh, “sinh hoạt chính trị” không thể có gì. Lớn lên, nước Pháp giải phóng, thì đầu quân. Cho nên, sau hai năm rưỡi ở trong quân đội Pháp, vào một ngày cuối tháng chạp 1949 ở Lạng Sơn, quyết định bỏ ngũ, ra vùng tự do tham gia kháng chiến Việt Nam – một chọn lựa cá nhân, không mấy dễ dàng – là kết cục của cả một quá trình quan sát, trăn trở, đắn đo, không xuất phát từ động cơ “ý thức hệ” hay do chỉ thị (Đảng Cộng sản Pháp không hề, trong chiến tranh Đông Dương, cũng như sau này trong chiến tranh Algérie, kêu gọi đào ngũ), mà một phần do hoàn cảnh khách quan (mối liên hệ với kháng chiến Việt Nam có nguy cơ bị bại lộ), và cơ bản do trải nghiệm cá nhân thôi thúc: “Tôi xấu hổ phải chứng kiến những gì mà bọn nazi trước đây đã gây ra ở Vercors nay đang tái diễn tại đây. Những lúc đó tôi cảm thấy nhục vì mình là người Pháp.” (tr.58).


Một năm làm công tác địch vận ở Lạng Sơn, sau chiến thắng biên giới (cuối năm 1950), Albert được đưa về ATK (An toàn khu, “thủ đô” kháng chiến) làm biên tập viên kiêm xướng ngôn viên chương trình tiếng Pháp của đài “Tiếng Nói Việt Nam”. Đầu 1953 đến Hiệp định Genève, chuyển sang Cục địch vận (thuộc Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam), trông coi một trại “hàng binh”.


Phục viên với quân hàm thiếu tá, Albert chuyển sang một nghề mới: nhà báo kiêm nhiếp ảnh (báo tiếng Pháp Le Vietnam en marche. Là người nước ngoài, Albert không phải tham gia cải cách ruộng đất (1955-56), nhưng tình hình bắt đầu ngột ngạt với cuộc xung đột Xô-Trung. Trong một lớp học “chống chủ nghĩa xét lại” nhân ký kết Hiệp định ngừng thử vũ khí hạt nhân (1962), ông Lê Duẩn đích thân tới “trình bày hơn ba tiếng đồng hồ, rồi hỏi có ai thắc mắc gì không. Không nghe lời can của các đồng nghiệp ngồi xung quanh, tôi hỏi, với tư cách là đảng viên Đảng cộng sản Pháp (mà, thông qua phóng viên thường trú của báo L'Humanité tại Hà Nội, tôi biết là ủng hộ hiệp định này) thì tôi phải làm như thế nào, thế là Lê Duẩn làm một tràng lên án Đảng Cộng sản Liên Xô và ĐCS Pháp, thậm chí còn kết tội Maurice Thorez là phản bội giai cấp công nhân Pháp... Phẫn nộ trước những lời lẽ đó, tôi đứng dậy bỏ ra ngoài hội trường, dưới mắt nhìn thiện cảm của một vài đồng nghiệp trong toà soạn” (có lẽ nên nói thêm: Albert lúc đó hai con, con gái đặt tên là France, con trai Maurice!!!)(tr. 131). Ngay sáng hôm sau, Albert được chuyển sang Ban Tây Ban Nha (anh không biết một chữ Tây Ban Nha!!!).


Thế là, cũng như G. Boudarel và J. Tarago, mùa xuân năm 1964, Albert Clavier rời Hà Nội. Với bản án tử hình (tháng 12.1950) treo trên đầu, ông được Đảng cộng sản Hung (theo yêu cầu của ĐCS Pháp) đưa về Budapest.


Cuộc đời thứ ba: nhà kinh doanh


4 năm đầu ở Budapest, Albert Clavier làm việc ở Liên đoàn Thanh niên Dân chủ Thế giới (FMJD), một tổ chức tập hợp các tổ chức thanh niên “tiến bộ” (thân Cộng). Đây là những tổ chức “mặt trận” còn rơi rớt từ thời Quốc tế Cộng sản. Nó sẽ bị nghiền nát dưới dây xích của đoàn xe tăng Liên Xô tiến vào Praha (tháng 8.1968): tại văn phòng FMJD, Albert tán thành một quyết nghị do đại biểu Liên Xô chủ xướng (không lên án việc Liên Xô can thiệp ở Tiệp Khắc), để sáng hôm sau, mới biết thái độ “không đồng tình” của ĐCS Pháp! Bốn năm xa Việt Nam, vị cay đắng chưa tan, nhưng anh là người tích cực tổ chức những hoạt động của FMJD ủng hộ Việt Nam chống Mỹ.


Tới cuối năm 1968, cuộc đời thứ ba của Albert Clavier mới thực sự bắt đầu: từ phụ tá giám đốc cho một công ti kinh tài nhỏ của ĐCS Pháp, Clavier nhanh chóng trở thành người trách nhiệm chính phụ trách xuất khẩu thiết bị nông nghiệp sang các nước Đông Âu cho tập đoàn Interagra (của nhà “tỉ phú đỏ” J.-B. Doumeng). Văn phòng của ông sẽ đặt ở Budapest cho đến ngày các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu sụp đổ. Trong hai thập niên 70 và 80, nhà kinh doanh Albert Clavier đóng một vai trò chủ chốt trong mậu dịch Pháp-Hung, có quan hệ chặt chẽ với sứ quán Pháp ở Budapest (họ chỉ chính thức quen nhau khi Clavier và hai đồng chí Boudarel, Tarago được ân xá năm 1967). Trong lý lịch của nhà kinh doanh, có lẽ nên ghi một điểm son tiêu biểu: bữa điểm tâm “lễ tân” tại sứ quán Pháp với tổng thống François Mitterrand cùng với đại diện các đại công ti Rhone-Poulenc, Matra, Ngân hàng BNP: “Ăn điểm tâm với Tổng thống Pháp! Xa rồi, cái ga-mèn ăn xúp của thằng bé chăn bò 12 tuổi” (tr.185).





*


Ngày hôm nay, cậu bé chăn bò đã bước sang bát tuần, sống an nhiên cuộc đời làm ông ngoại, gần người con gái sinh ở Hà Nội, có một cái tên Pháp rất đẹp (France) và một cái tên Việt Nam cũng rất đẹp (Hồ Thiên Nga, nguyên diễn viên ballet đã từng múa vở Lac des cygnes / Swan Lake của Tchaikovsky!), sau nửa thế kỉ bão tố.


Số phận Clavier “may mắn” hơn hai đồng chí kia: Tarago dường như đã chết trong một hoàn cảnh khá bi đát; Boudarel (từ trần cuối năm 2003) năm 1991 bất hạnh trở thành vật tế thần cho đám khuyển ưng của một chính khách lưu manh vào đúng thời điểm khối cộng sản sụp đổ (1991).


Chúng ta may mắn được đọc những trang hồi kí trung thực của Albert Clavier. Trung thực vì con người này không có gì phải hối tiếc những việc đã làm. Trung thực vì ông là người trực tính, yêu ghét phân minh, có phần cố chấp: thí dụ điển hình là quan hệ giữa Clavier và Boudarel, cùng hội cùng thuyền, nhưng Clavier đã có định kiến là Boudarel “theo đuôi” ĐCS Việt Nam, rốt cuộc tuy hai người rời khỏi Việt Nam trong cùng một hoàn cảnh (1964), trở lại Pháp (năm 1967) trong cùng một chuyến vượt biên không giấy tờ từ Thuỵ Sĩ về Grenoble, nhưng định kiến vẫn còn nguyên. Song cũng chính vì thế mà chứng từ của Clavier đáng tin cậy, mặc dầu, cũng như mọi chứng từ cá nhân, nó cũng là đối tượng nghiên cứu của sử học, chứ không phải là một bức tranh lịch sử khách quan.


Sau bao thăng trầm, tác giả vẫn có một trí nhớ tốt về nhân danh, địa danh và bối cảnh sự việc (sai lầm duy nhất mà tôi thấy, nhỏ thôi:  gọi bác sĩ Phạm Ngọc Thạch là... Tôn Thất Tùng).


Cuối cùng, tôi nghĩ cũng cần “ra ngoài đề” một chút để nói đôi điều về “nghị quyết 9” (12.1963) và vụ “xét lại chống đảng”, vì hai sự kiện này liên quan trực tiếp tới sự ra đi của Albert Clavier:


Gần 50 năm sau, chúng ta vẫn chưa có chắc chắn văn bản chính xác của nghị quyết 9 (theo những nguồn tin đáng tin cậy, thì văn bản sau này đã được công bố là một văn bản được viết lại); sự thật về quá trình cuộc đấu tranh nội bộ trong thời gian 1960-63 này, đến nay, vẫn chưa có những công trình nghiên cứu nghiêm túc nào. Một cách nhìn khá phổ biến là: bề ngoài, ĐCSVN không đứng về phe nào trong cuộc đấu khẩu và bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc (để vẫn tranh thủ được sự ủng hộ của cả đôi bên); nhưng về thực chất, Hà Nội rất gần, nếu không nói là “ngả sang” Bắc Kinh.


Theo ý tôi, sự thật phức tạp hơn. Đúng là ở thời điểm 1963-64, quan điểm của ĐCS VN về chính sách của Mĩ gần Trung Quốc hơn là gần Liên Xô. Nhưng từ Cách mạng văn hoá, và nhất là về sau, thì ngược lại, mà không thể nói là lập trường của ĐCS VN trong vấn đề chiến tranh chống Mĩ (vấn đề cốt tử, quyết định mọi vấn đề khác) đã thay đổi.


Với khoảng lùi của thời gian, bây giờ thấy rõ: thái độ của Hà Nội đối với Moskva và Bắc Kinh được quyết định bởi ý chí giải phóng miền Nam, chứ không phải ngược lại. Cho nên, ngoại trừ một vài trường hợp cá biệt (như ca Hoàng Văn Hoan), cách phân loại “thân Liên Xô”, “thân Trung Quốc” trong nội bộ ĐCS VN là một sai lầm (rất phổ biến). Sai lầm này có nguyên nhân của nó: người ta nhầm lẫn xu hướng “mao-ít” với thái độ thân Trung Quốc. Và đúng là từ năm 1950, chủ nghĩa Mao đã tràn lan sang Việt Nam với những hậu quả ngày nay còn thấy tác hại (chỉnh phong, chỉnh huấn, thanh lọc, cải cách ruộng đất, chuyên và hồng...). Nhìn chung, đại đa số đảng viên cộng sản ở Việt Nam “không mao ít cũng mao… nhiều”. Và ở thời điểm cuối năm 1963, ở đỉnh cao của cuộc xung đột Trung Xô, quyết định giải phóng miền Nam (nghị quyết 15 năm 1959) đương nhiên dẫn tới “nghị quyết 9”.


Với nghị quyết này, một số uỷ viên trung ương như Ung Văn Khiêm, Lê Liêm, Đặng Kim Giang đã bị vô hiệu hoá, họ không bị bắt giam nhưng bị cô lập hoá, canh chừng chặt chẽ. Và trong đảng, học tập về nghị quyết 9 cũng có nghĩa là o ép, vô hiệu hoá các “phần tử xét lại”, đặc biệt là những phần tử trí thức chống lại chủ nghĩa Mao.


Vụ đàn áp “nhóm xét lại chống đảng” với các vụ bắt bớ, đàn áp thẳng tay, chỉ bắt đầu vào mùa hè năm 1967, tức là vào chiều hôm trước của sự xích lại gần Liên Xô. Tháng 11.1967, ông Lê Duẩn đã đọc một diễn văn dài nhân dịp kỉ niệm 50 năm Cách mạng tháng Mười, với câu nói nổi tiếng đại ý: đối với người cộng sản Việt Nam, Liên Xô là tổ quốc thứ nhì. Như vậy, đây là một cuộc đàn áp một công đôi việc: (1) khép miệng những người, hơn ba năm trước đó, đã lên tiếng chống chủ nghĩa Mao và chủ trương phải giữ quan hệ tốt với Liên Xô; (2) siết chặt sự trấn áp về tư tưởng để chuẩn bị cuộc tiến công 1968.


Đó là những nguyên nhân “chính trị quốc gia” quen thuộc trong lịch sử các chế độ chuyên chế. Kèm đó, là những động cơ “đời thường” gắn với tham vọng cá nhân: (1) một trong những mục đích của việc bắt người mùa hè năm 1967 (đặc biệt là việc bắt giam hai đại tá Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng cục 2, và Lê Minh Nghĩa, cục trưởng cục tác chiến trong Bộ tham mưu QDND), là ép cung họ tố giác đại tướng Võ Nguyên Giáp có liên hệ với Liên Xô; 1967 mở đầu một quá trình tiệm tiến của cặp Lê Duẩn – Lê Đức Thọ nhằm loại trừ tướng Giáp; (2) hầu hết những nhà cách mạng lão thành bị tù 6-9 năm trong vụ này đều đã từng ở tù Sơn La, cùng sinh hoạt chi bộ với Lê Đức Thọ; giới thân cận các vị này tin rằng việc họ bị bắt có một nguyên nhân: ông “Sáu Búa” muốn thủ tiêu những chứng nhân về thời ông ở trong tù, đặc biệt là việc ông phản đối chính sách mặt trận dân tộc (thành lập Việt Minh) của chủ tịch Hồ Chí Minh.


Trở lại hồi kí của Clavier, đặc biệt về “sự cố” anh đã bước ra khỏi phòng họp khi nghe Lê Duẩn lên án Maurice Thorez “phản bội giai cấp công nhân”. Không khí căng thẳng này giữa những người cộng sản Pháp và Việt Nam, chúng ta đã cảm thấy trong một chứng từ khác: Charles Fourniau, nhà sử học, ở thời điểm 1964, là phóng viên thường trú của báo L'Humanité tại Hà Nội (Le Vietnam que j'ai vu, Les Indes Savantes, 2003). Nếu phải nói tóm tắt: cũng như Liên Xô, ĐCS Pháp (những người đã trả giá rất cao trong cuộc Chiến tranh Thế giới 1939-45) lo sợ rằng chiến tranh Việt Nam (dù ở xa) có thể châm ngòi nổ cho Chiến tranh Thế giới lần thứ ba (điều này giải thích tại sao, cho đến cuối năm 1967, khẩu hiệu của ĐCS và Phong trào hoà bình Pháp trong các cuộc biểu tình trước sau chỉ là “Paix au Vietnam”); phía Việt Nam thì coi thái độ chần chừ, “bàn ra” (năm 1957, không hề hỏi ý kiến Hà Nội, ông K đã đề nghị kết nạp VNDCCH và VNCH vào Liên Hợp Quốc!) là một sự phản bội. Cuối năm 1967, đầu năm 1968 (với cuộc tấn công Tết Mậu Thân), mới rõ khả năng Việt Nam có thể thắng Mĩ mà không đe doạ hoà bình thế giới, từ đó, quan hệ mới trở thành tốt đẹp như trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất (mặc dù, trong giai đoạn 1945-47, còn có nhiều điều phải nói, nhưng đó lại là chuyện khác...).


ũng may là Clavier trở thành người ngoài cuộc sau màn đầu của kịch bản “chống xét lại”. Nếu ở thêm đến năm 1967, không chừng anh được phong chức “gián điệp”, như nhà Việt học Maurice Durand đã được Tố Hữu tấn phong “gián điệp 2eme Bureau” giật dây “bọn Nhân văn Giai phẩm” năm 1956 (trong hồi kí xuất bản cuối đời, Tố Hữu còn tỉnh bơ viết như vậy, tuy không nêu đích danh M. Durand).


Những cay đắng từng trải, Albert Clavier không quên. Anh đã kể lại, trung thực và chừng mực. “Tôi không tiếc gì cả”, anh viết trên tiêu đề cuốn hồi kí, như Edith Piaf đã rút ruột cất tiếng ca năm nào. Không tiếc gì, sau ba cuộc đời bão tố, vui buồn xen kẽ, nhưng, như anh đã tâm sự với nhà thơ Dương Tường: “Không một lời nào có thể diễn tả niềm vui của tao được gặp lại mày. Năm tháng qua đi nhưng kỉ niệm vẫn còn lại, những kỉ niệm tốt và những kỉ niệm xấu. Nhưng người ta thường chỉ giữ những kỉ niệm tốt, người ta nói thế! Đối với tao, những kỉ niệm tốt đó là mười sáu năm sát cánh với nhân dân của mày, đất nước của mày mà tao tôn thờ, mà tao coi như tổ quốc thứ hai của tao, những năm sống trong chiến khu chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân, vì độc lập dân tộc… Phải, tao không hối tiếc gì hết. Nếu cần làm lại, tao vẫn sẽ làm lại như cũ…” (xem bài viết của Dương Tường trong trang Văn số Xuân Kỷ Sửu của Diễn Đàn).


Nguyễn Ngọc Giao





Gặp lại Albert Clavier


Dương Tường


Như Edith Piaf hát


Tháng 11/2008, tôi có dịp trở lại Pháp lần thứ tư. Chuyến đi này, ngoài việc dự sinh nhật đầy hai năm bé Võ Tiểu Lang, con gái nhà thơ Võ Văn Thận và Mme Lý Hồng Ngọc, với tư cách là cha đỡ đầu, tôi còn có một mục đích khác: thăm người bạn cố tri Albert Clavier. Câu chuyện hai người bạn già chúng tôi tìm lại được nhau sau hơn bốn mươi năm biệt vô âm tín hàm chứa nhiều điều mang dấu ấn của một thời đầy biến động.


Tôi quen Albert Clavier như bạn đồng nghiệp vào cuối năm 1955, một năm sau khi Hiệp nghị Genève lập lại hoà bình ở Đông Dương. Tôi từ Trung đoàn 66, Đại đoàn 304 chuyển ngành về làm phóng viên – biên tập ở Thông tấn xã Việt Nam, còn anh từ Cục Địch vận chuyển về báo Vietnam en marche với chiếc lon thiếu tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Việc Albert trở thành một trong những người “lính da trắng của Hồ Chí Minh1” dường như là một điều tự nhiên. Xuất thân từ một gia đình nghèo, rất sớm, từ tuổi 12, được sự giác ngộ của người anh trai Henri, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, Albert đã tham gia cuộc kháng chiến của nhân dân Pháp chống phát-xít trong thời kì Đức chiếm đóng. Năm 1947, anh bị lùa vào quân dịch, điều sang Việt Nam cùng Đạo quân viễn chinh Pháp. Với xác tín chính trị được củng cố qua đấu tranh, anh cảm thấy cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống xâm lược Pháp cũng giống như cuộc kháng chiến chống Đức quốc-xã của nhân dân Pháp năm xưa. Bắt liên lạc được với một cán bộ hoạt động địch hậu, anh được đưa ra vùng tự do, nhận nhiệm vụ kêu gọi binh sĩ Pháp trong các trận công đồn và cuối cùng, phụ trách trại hồi chính cho đến khi trại giải tán vào tháng 7/1954. Các tù, hàng binh được hồi hương theo điều khoản trao trả tù binh của Hiệp nghị Genève 1954. Albert không thuộc số đó: anh bị toà án quân sự Pháp tại Hà Nội kết án tử hình vắng mặt ngày 27 tháng 12 năm 1950 vì tội “đào ngũ sang hàng ngũ địch”.





Vậy là Albert ở lại Việt Nam và trở thành nhà báo. Cùng chuyển từ trại hồi chính về làm báo, còn có Boudarel và Tarago, một cựu đại uý trong quân đội Pháp, đã từng tham gia cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha. Tôi thân với Albert hơn vì hai chúng tôi cùng phụ trách đưa tin về những hoạt động văn hoá - xã hội, thường gặp nhau gần như hằng ngày. Thời kì khó khăn của chúng tôi bắt đầu từ năm 1962, khi xảy ra xung đột quan điểm giữa Liên Xô và Trung Quốc, cụ thể hơn, khi BCH TƯ Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết 9 xác định lập trường đứng về phía Trung Quốc lên án “chủ nghĩa xét lại Khroutchtchev”. Cả Albert và tôi đều bị liệt vào danh sách “xét lại”. Tôi “dính” vào vụ đám tang Dương Bạch Mai, một trưởng lão cách mạng kiên quyết chống đường lối thân Trung Quốc. Cái chết của ông sau một cơn đột quỵ giữa một phiên họp Quốc hội ngay trước khi ông sắp đọc một tham luận mà người ta đoán là sẽ “nẩy lửa”, đến nay vẫn còn là một nghi án. Tôi đại diện cho một số bạn bè văn nghệ sĩ và nhà báo, mang tới một vòng hoa lớn toàn hồng thắm với chiếc băng ghi dòng chữ “Tinh thần người cộng sản chân chính Dương Bạch Mai bất diệt” vào phút cuối của nghi lễ viếng. Tấm băng đã bị xé bỏ ngay khi được chuyển ra ngoài. Hôm đó, khi chiếc xích-lô chở tôi tới trụ sở Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở cuối đường Tràng Thi, nơi tổ chức tang lễ, chính Albert là người giúp tôi một tay khiêng vòng hoa xuống xe và thúc tôi: “Dépêche-toi, la cérémonie commence déjà!” Tôi bị liệt vào “sổ đen” từ đấy. Đợt học tập “quán triệt” Nghị quyết 9, Albert được dự lớp của cán bộ trung, cao cấp. Trong một buổi lên lớp tại hội trường, do Tổng bí thư (đúng ra, lúc đó là Bí thư thứ nhất) Lê Duẩn đích thân giảng, khi nghe ông kịch liệt công kích Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Pháp, phê phán Maurice Thorez “phản bội giai cấp công nhân”, anh đã đứng dậy bỏ ra về, một cử chỉ mà chúng tôi, dù có bất bình đến đâu, cũng không ai dám làm. Ngay hôm sau, người ta chuyển Albert từ biên tập tiếng Pháp sang biên tập tiếng Tây Ban Nha, thứ ngôn ngữ mà anh hoàn toàn mù tịt! Sau cái đận ấy, chúng tôi hầu như không gặp nhau nữa, vì vào thời điểm này (và còn kéo lâu nữa), mọi tiếp xúc với người nước ngoài, kể cả những người đã công tác lâu năm trong cơ quan Nhà nước, đều bị xem là khả nghi. Giữa năm 1964, tôi được biết nhờ Đảng Cộng sản Pháp làm trung gian, Albert cùng Boudarel và Tarago được đưa sang làm việc ở Đông Âu. Từ đó, tôi bặt tin anh…


Thế rồi, hơn bốn mươi năm sau, do một tình cờ may mắn, cả Albert và tôi cùng có mặt trong số 7 (tháng 5/2005) của tạp chí Carnets du Việt Nam, anh trong một bài phỏng vấn và tôi với bài giới thiệu tổng quan về mĩ thuật đương đại Việt Nam. Eureka! Thì ra Albert đã về Pháp từ 1967 sau lệnh ân xá năm 1966! Tôi nhờ bạn bè bên đó tìm giúp địa chỉ và viết thư cho anh. Như vậy chúng tôi nối lại được liên lạc với nhau, chỉ còn làm sao gặp được nhau, tay bắt mặt mừng! Tình trạng sức khoẻ không cho phép Albert làm một chuyến đi dài cả chục ngàn cây số. Vậy tôi phải là người chủ động tìm đến anh. Tháng 6/2006, được một học bổng của Trung tâm quốc gia Sách (Centre national du Livre) dành cho dịch giả văn học, tôi có dịp thực hiện ý định ấy thì anh lại đang nằm viện. Vợ chồng một người bạn ở Lyon, anh Nguyễn Dư và chị Cúc, đã nhiệt tình lái xe hơn trăm cây số đưa tôi đến bệnh viện chuyên khoa phổi vùng Grenoble, nơi Albert nằm điều trị.





*


Từ trái sang phải: Dương Tường, France Thiên Nga, Albert Clavier


Đưa tôi từ Lyon đến Grenoble lần này là Dominique Foulon, biên tập viên tạp chí Carnets du Việt Nam, người mấy năm trước đã thực hiện cuộc phỏng vấn Albert, và Chánh Mouniama, người Pháp gốc Huế, phụ trách giao dịch và quan hệ công cộng của tạp chí. Lần này thì không phải đến bệnh viện, chúng tôi tới thẳng ngôi nhà hai tầng số 211 Đại lộ Victor Hugo, Saint-Laurent-du-Pont (Isère). Albert ở tầng lầu, tầng dưới anh để cho France mở một tiệm ăn nhỏ lấy tên cháu ngoại anh là Việt Trang. France (tên Việt là Thiên Nga) sinh năm 1962 tại Hà Nội, là con gái đầu của anh với người vợ đầu Việt Nam mà anh buộc phải li hôn sau khi sinh thêm cho anh một con trai. Ít hôm trước khi đến, tôi phone cho Albert, anh mừng rỡ báo tin tập hồi kí của anh (trong đó có vài trang nhắc đến tôi) vừa ra mắt độc giả. Anh đã bỏ phong bì một bản, định gửi đường bưu điện cho tôi, nhưng giờ giữ lại để trao tận tay. Khi tôi bước vào phòng anh, nó đã nằm sẵn trên bàn, vẫn nguyên trong phong bì ghi địa chỉ của tôi ở Hà Nội. Cuốn sách dày ngót 270 trang mang tên De l’Indochine Coloniale au Vietnam – Je ne regrette rien (Từ Đông Dương thuộc địa đến nước Việt Nam tự do – Tôi không hối tiếc gì hết)(*). Lời đề tặng tôi đầy kín cả trang bìa giả, chữ vẫn đều tăm tắp, đẹp theo kiểu cổ, lại có cả một tái bút: “Quel bonheur ce coup de fil du 12/11! Je vais enfin te revoir. J’attends ce jour avec impatience. (Hạnh phúc biết mấy, cú điện thoại của mày hôm 12/11! Cuối cùng, tao lại sắp được gặp mày. Tao nóng lòng chờ ngày ấy)”. Hình như vẫn chưa đủ, đêm 22/11, tức là trước hôm tôi hẹn đến, anh còn thức viết cho tôi một bức thư dài…


Albert bây giờ đã là một ông lão ngoài tám mươi, râu tóc bạc phơ. Một tháng trước đó, anh lại phải nhập viện vì một tai biến não, có lúc đã bị liệt nửa người. Hiện anh về nhà điều trị ngoại trú, hằng ngày tập đi quanh phòng.


Chúng tôi ngồi ôn lại chuyện cũ, những ngày tháng hoạn nạn, những kỉ niệm vui, buồn. Anh chỉ cho tôi tấm Huân chương Hữu nghị do Nhà nước Việt Nam trao tặng hồi tháng 10/2004. “Nhưng, anh trầm giọng nói với tôi, nó không thể thay thế những Huân chương Kháng chiến và Chiến thắng mà tao đã đánh mất trong những năm phiêu bạt sau này, những tặng thưởng cho thành tích kháng chiến của tao trong lòng nhân dân và đất nước Việt Nam, tổ quốc thứ hai của tao. Đó chính là cuộc đời tao.” Gần như suốt buổi, anh cứ nắm chặt tay tôi…


Chiều xuống, chúng tôi chia tay. Khi xe chúng tôi đi được khoảng 300 – 400m, tôi ngoái lại vẫn thấy Albert đứng ở cửa sổ phòng mình nhìn theo. Trong trí tôi, hiện lên những dòng thư anh viết cho tôi đêm trước: “Không một lời nào có thể diễn tả niềm vui của tao được gặp lại mày. Năm tháng qua đi nhưng kỉ niệm vẫn còn lại, những kỉ niệm tốt và những kỉ niệm xấu. Nhưng người ta thường chỉ giữ những kỉ niệm tốt, người ta nói thế! Đối với tao, những kỉ niệm tốt đó là mười sáu năm sát cánh với nhân dân của mày, đất nước của mày mà tao tôn thờ, mà tao coi như tổ quốc thứ hai của tao, những năm sống trong chiến khu chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân, vì độc lập dân tộc… Phải, tao không hối tiếc gì hết. Nếu cần làm lại, tao vẫn sẽ làm lại như cũ…”


Ừ, Albert, tao cũng vậy. Nếu cần làm lại, tao sẽ làm lại nguyên như cũ. Chúng mình, mày và tao, chẳng có gì phải hối tiếc. Và tao cũng nói như mày: tôi không hối tiếc gì hết.


Je ne regrette rien.


Như Edith Piaf hát.


DƯƠNG TƯỜNG


1 Theo cách gọi của Jacques Doyon, tác giả cuốn Les Soldats blancs d’Ho Chi Minh.Les transfuges anti-fascistes et les communistes français dans le camp du Việt-Minh, nxb Fayard 1973.


Nguồn: diendan.org

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét