Nguyễn Hưng Quốc là người đầu tiên dùng thuật ngữ đạo đức học của sự nổi giận trong một bài viết trên VOA nêu cách ông nhìn sự giận dữ từ góc độ đạo đức học. Ở một bài viết khác ông cho biết:
Tôi biết có thứ đạo đức học của sự tha thứ (ethics of forgiveness) nhưng tôi không hề tin vào thứ đạo đức học của sự quên lãng (ethics of forgetting).
Nhờ vậy ta có thể đoán ra đạo đức học của sự nổi giận, theo cách dùng của Nguyễn Hưng Quốc, chính là ethics of anger trong tiếng Anh hay éthique de la colère trong tiếng Pháp của Michel Foucault.
Ethics trong tiếng Anh và éthique trong tiếng Pháp có khi là đạo đức (nếu chỉ một hệ thống giá trị đạo đức), có khi là đạo đức học (nếu chỉ ngành học nghiên cứu cái hệ thống giá trị ấy). Trong tiếng Pháp, người ta có thể chê một anh nghiên cứu sinh đạo văn là không có éthique de la recherche (tiếng Anh là research ethics), tức là không có đạo đức (của nhà) nghiên cứu, không phải chuyện đạo đức học của sự nghiên cứu. Tương tự, ta có business ethics (tiếng Anh) là đạo đức kinh doanh. Thuật ngữ của Weber ethics of responsibility (tiếng Anh) / éthique de la responsabilité (tiếng Pháp) thành đạo đức trách nhiệm trong tiếng Việt. Có người đề nghị dịch work ethics (tiếng Anh) là văn hóa làm việc, chính xác hơn đạo đức làm việc, và chưa từng có ai dịch thành đạo đức học của sự làm việc. Nói tóm lại, không phải từ gốc tiếng Anh là ethics và tiếng Pháp là éthique thì tự nhiên tiếng Việt phải là đạo đức học. Thậm chí cũng không nhất thiết phải là đạo đức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét