Địa danh Việt Nam mang thành tố chung "Cầu" ở trước
1. Trong địa danh Việt Nam, có hàng trăm đơn vị mang thành tố chung Cầu ở trước. Những địa danh này đã chuyển từ tên cầu sang tên những đối tượng khác, như rạch, xóm, kinh, ấp,… Điều này cho thấy các chiếc cầu có quan hệ thiết thân đến cuộc sống của con người.
2. Yếu tố sau có thể là tên các đơn vị hành chính, tên người, cây cỏ, cầm thú,…
2.1. Trước hết, yếu tố sau là tên các đơn vị hành chính.
Cầu An Hạ là một trong 12 tổng của hạt Chợ Lớn (1880), rồi tỉnh Chợ Lớn (1910), gồm 11 xã thôn. Một phần của hai xã thôn tổng này sát nhập vào tp. HCM. Tên tổng do tên tên cầu mà ra.
Cầu Ba Thôn là rạch ở phường Thạnh Lộc, quận 12, tp. HCM. Vì rạch chảy dưới cầu Ba Thôn (Quới An, Quới Xuân, Thạnh Lộc) nên mang tên trên.
2.2. Kế đến, yếu tố thứ hai là tên các con vật.
Cầu Cá Lăng là kinh nối liền tp. HCM và tỉnh Bình Dương. Cá lăng là thứ cá nước ngọt, không vảy, giống cá tra, cá vồ.
Cầu Sấu là rạch ở đầu đường Hàm Nghi, quận 1, tp. HCM, có từ đầu nhà Nguyễn, từ khu ao đầm phía trong chảy ra rạch Bến Nghé. Năm 1892, rạch này bị lấp. Cầu Sấu vì ở ngay vàm rạch, bãi sông Sài Gòn, có vòng rào dự trữ cá sấu để bán và có cầu ra bắt cá sấu.
Cầu Vạc là suối ở xã Tân Hiệp, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Cầu Vạc là chiếc cầu mà ngày xưa vạc đi ăn đêm thường đậu nơi đây [8].
2.3. Tiếp theo, thành tố đứng sau là tên các từ chỉ sông nước.
Cầu Bến Mương là suối ở ranh xã Trung Lập Hạ, huyện Củ Chi, tp. HCM..
Cầu Kinh là sông nhánh của sông Vĩnh Bình, làm ranh giới của tp. HCM và tỉnh Bình Dương. Cầu Kinh cũng là rạch ởhuyện Nhà Bè, tp. HCM.
Cầu Suối là kinh ở xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, tp. HCM, dài độ 7.200m.
Cầu Vụng là sông ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Cầu Vụng vì sông chảy qua chiếc cầu ở mấy vụng nước của các xã Khánh Hội, Khánh Nhạc [6, 270].
2.4. Yếu tố đứng sau vốn là sản phẩm được bán trên địa bàn.
Cầu Dầu là cống đặt dọc con rạch nhỏ, nơi khu chuyên bán dầu phụng, nay ở vị trí trước UBND tp. HCM. Cống đã bị phá bỏ cuối thế kỷ 19.
Cầu Đường là xóm có cầu cạnh khu bán các loại đường tại Chợ Lớn ngày xưa. "Gia Định phú" (bài 1) có câu:
Trong Cầu Đường bao chuốt ngọt ngon, đủ đường phổi, đường cát, đường phèn, đường hạ;
Ngoài Xóm Bột phơi phong trắng dã, nhiều bột mì, bột đậu, bột lọc, bột khoai.
Cầu Giấy là quận của tp. Hà Nội, diện tích 12,1km2, dân số 142.800 người (2006), thành lập từ tháng 11 – 1996, gồm 8 phường. Tại quận này trước đây có một làng chuyên sản xuất giấy nên gọi làng Giấy. Ở đây có một cái cầu làm theo kiểu thượng gia hạ kiều (“trên là nhà, dưới là cầu”), bán chủ yếu các loại giấy nên mang tên cầu Giấy, có từ thời nhà Lý. Tên cầu chuyển thành tên quận [2].
Cầu Mật là một cách gọi khác rạch Ông Bé (đúng tên là Ong Bé, cũng gọi Cầu Cạn) ở quận 8, tp. HCM. Vì người ta lấy mật ong ở hai rạch Ong Lớn và Ong Bé ra bán gần cầu.
Cầu Muối là chợ ở phường Cầu Ông Lãnh, quận 1, tp. HCM. Đây là chợ đầu mối rau quả và hoa tươi. Chợ xây xong năm 1874. Ở vào khu vực trước kia có bắc cầu qua rạch (đã bị lấp làm con đường, nay là Nguyễn Thái Học) để chuyển muối Bà Rịa từ dưới ghe lên kho nên chợ có tên này [4].
Cầu Xóm Rượu là ấp của xã An Phú, huyện Bình Chánh, tỉnh Gia Định trước năm 1975. Nay thuộc xã Phong Phú, huyện Bình Chánh. Tại nơi này trước đây có xóm chuyên nấu rượu.
2.5.Chất liệu của cầu thường là yếu tố đứng sau.
Cầu Đá là bến tàu ở tp. Nha Trang, xây năm 1920, đến năm 1927 được nâng cấp, có chiều dài 24m. Cầu Đá là “cầu cảng xây bằng đá”. Cầu Đá còn là suối ở làng Xuân Trường (1902), nay thuộc phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, tp. HCM.
Cầu Đất là tên xóm, còn gọi là xóm Biện Tao, ở tp. HCM. Vì cầu xây bằng đất nên mang tên trên.
Cầu Giát là thị trấn, huyện lỵ huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Giát là tấm vạt tre đan. Vì mặt cầu được lót bằng những tấm vạt nên gọi là cầu Giát (pont en claies de bambous). Tên cầu chuyển thành tên thị trấn [3].
Cầu Sắt là tên rạch và tên vùng đất ở huyện Hóc Môn, tp. HCM..
Cầu Tre là phường của quận 11 cũ, trước 30 - 4 -1975, nay là địa phận của tp. HCM. Cầu Tre còn là rạch ở vùng Củ Chi.
Cầu Ván là tên ít nhất bốn con rạch ở tp. HCM.
2.6. Một số từ chỉ hướng của cầu so với dòng sông hay con đường.
Cầu Ngang là huyện của tỉnh Trà Vinh, diện tích 328,7km2, dân số 127.700 người (2006), gồm 2 thị trấn Cầu Ngang, Mỹ Long và 13 xã. Cầu Ngang vốn chỉ những chiếc cầu vuông góc với dòng chảy. Cầu Ngang còn là tên sáu con rạch và xóm ở tp. HCM.
Cầu Xéo là khu vực ở thị trấn Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Cầu Xéo vì chiếc cầu xéo góc với con đường [8]. Cầu Xéo còn là tên khu vực ở quận Tân Bình. Cầu xéo là cầu bắc xéo qua kinh rạch.
2.7. Đứng sau từ cầu là tên cây cối ở chung quanh.
Cầu Bông là rạch ở quận Bình Thạnh, tp. HCM. Vì chảy gần cầu Bông nên rạch mang tên này. Mà cầu Bông là cầu gần vườn hoa của Tả quân Lê Văn Duyệt.
Cầu Da và Cầu Dà là hai con rạch ở vùng Bình Chánh, tp. HCM. Da là cây đa và Dà là giống cây sác, vỏ có nhiều tanin, dùng làm thuốc nhuộm và thuộc da.
Cầu Dền là phường của quận Hai Bà Trưng, tp. Hà Nội. Cũng gọi Cầu Giền, Cầu Rền. Cầu Dền có hai cách lý giải: 1. Cầu bắc qua sông Kim Ngưu, hai bên sông trước đây có trồng nhiều rau dền nên cầu mang tên trên [2]. Tên cầu chuyển thành tên phường. 2. Tên cầu Dền gốc ở Hoa Lư, Lý Thái Tổ mang ra đặt cho Hà Nội khi dời đô [5].
Cầu Dưa, Cầu Dừa, Cầu Tràm là tên ba con rạch ở tp. HCM.
Cầu Kè là huyện của tỉnh Trà Vinh, diện tích 245,8 km2, dân số 116.200 người (2006), gồm một thị trấn và 10 xã. Cầu Kè là do ba dòng sông kè sát chiếc cầu bên chợ [1, 89]. Có thể cầu làm bằng cây kè hoặc ở cạnh cây kè thì có lý hơn [3].
Cầu Nhum là rạch ở huyện Hóc Môn, tp. HCM. Có lẽ do cầu Rạch Nhum nói gọn thành Cầu Nhum. Nhum là loại cây giống cây cọ nhưng lớn hơn, cũng có gai.
Cầu Sơn là rạch ở quận Bình Thạnh, tp. HCM, dài độ 1.000m. Trên rạch có cầu Sơn nên rạch mang tên này. Dưới thời Nguyễn, tại khu vực có một số cây sơn khá to (loại dùng làm sơn mài). Cầu Sơn cũng là khu phố chợ do Nguyễn Trấn (đô uý của Nguyễn Nhạc) lập, nhưng không thành công vì nước mặn, có nhiều kinh rạch đi lại khó khăn nên khó phát triển. Nay thuộc các phường 25, 26, quận Bình Thạnh [4].
2.8. Hàng loạt từ đứng sau chỉ tính chất của cầu.
Cầu Bé, Cầu Cạn, Cầu Cũ, Cầu Cụt, Cầu Dài, Cầu Đen, Cầu Lớn, Cầu Nhỏ, Cầu Trắng, Cầu Trệt là tên nhiều con rạch ở tp. HCM [4].
Cầu Gồ là thị trấn, huyện lỵ huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Cầu Gồ vốn có nghĩa là “cầu nổi cao lên một cách không bình thường”.
Cầu Hin là núi ở tây nam tp. Nha Trang, cao 972m. Cầu Hin là “cầu đen”.
2.9. Các công trình xây dựng ở chung quanh cầu cũng thường kết hợp với từ cầu để gọi tên các đối tượng liên quan.
Cầu Am, Cầu Bót, Cầu Chùa, Cầu Cống, Cầu Đập, Cầu Đình, Cầu Cống Lở, Cầu Lăng, Cầu Miếu, Cầu Quán, Cầu Trạm là tên raïch ôû tp. HCM [4].
Chỉ có một số địa danh ở tp. HCM đáng chú ý: Cầu Kho, Cầu Lầu, Cầu Nhà Việc.
Cầu Kho là phường của quận 1, tp. HCM. Cầu Kho vì trên địa bàn phường trước đây có kho Cẩm Thảo, được xây dựng năm 1805, chứa lúa [4].
Cầu Lầu là rạch ở các phường 15 và 17, quận Bình Thạnh, từ rạch Cầu Bông đến rạch Văn Thánh, dài độ 800m. Trên cầu trước đây có xây một cái chòi như cái lầu để khách nghỉ chân, sau đó đã hư. Rạch đã bị ấp từ lâu.
Cầu Nhà Việc là rạch ở huyện Củ Chi, tp. HCM. Nhà việc (cũng gọi nhà làng, nhà vuông) là nhà làm việc quan, tức cơ quan nhà nước ở xã ấp dưới thời phong kiến.
Cầu Đập là rạch của sông Vĩnh Bình, ăn thông với rạch Nước Trong, gần ranh giới quận Thủ Đức (tp. HCM) và tỉnh Bình Dương.
Cầu Kho là khu vực thuộc phường Thuận Lộc, tp. Huế. Nơi này trước đây có các kho tiền, thuốc súng và diêm tiêu,… sau đó lần lượt dời đi, dân đến ở, nên có tên trên [7].
2.10. Sau cùng, yếu tố sau là tên các nhân vật có quan hệ đến cầu.
Cầu Bà Cả, Cầu Bà Đề, Cầu Bà Nga, Biện Tao (còn gọi xóm Cầu Đất), Cầu Huệ (hay Cầu Lão Huệ), Cầu Hương Việt, Cầu Ông Bông, Cầu Ông Búp, Cầu Ông Cai, Cầu Ông Đèo, Cầu Ông Đụng, Cầu Ông Nhiêu, Cầu Ông Tán, Cầu Ông Thìn, Cầu Ông Thoàn, Cầu Quan, Cầu Vàm Thuật,…hầu hết là tên rạch, xóm,… ở tp. HCM [4].
Cầu Ông Lãnh là rạch, chợ, phường ở quận 1, tp. HCM. Ông Lãnh ở đây là Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (1798 – 1866), người có công xây chiếc cầu nơi đây và có công chống Pháp.
Ngoài ra, còn khá nhiều cầu khó xếp vào loại nào, tạm kể ra sau đây vì nguồn gốc khá đặc biệt của chúng.
Cầu Chông là rạch từ rạch Bến Nghé chảy vào địa phận quận 4, tp. HCM. Sở dĩ có tên này là vì khi đóng quân ở bên kia rạch Bến Nghé, Nguyễn Ánh đã cho cắm chông để ngăn bước tiến của quân Tây Sơn [4].
Cầu Đông là chợ lớn ở thành Thăng Long từ thời Lý – Trần đến giữa tk. 19. Sông Tô Lịch bị lấp, cầu Đông (ở hướng đông)không còn. Chợ Cầu Đông và chợ Bạch Mã dời đến phường Đồng Xuân nên gọi là chợ Đồng Xuân, tiền thân của chợ Đồng Xuân hiện nay.
Cầu Đúc là sông ở huyện Bình Chánh, tp. HCM. Cầu Đúc là cầu xi măng cốt thép.
Cầu Hai là đầm nước mặn ở huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế, rộng 10.500ha, thông với phá Tam Giang và biển Đông ở cửa Tư Hiền. Cũng gọi là Cầu Đôi. Cầu Hai có lẽ là hai chiếc cầu ở kế cận nhau.
Cầu Hàn là rạch chảy dưới cầu Hàn, quận 7, tp. HCM. Vì cầu hay bị xói mòn chân và lòng cầu đã bị “hàn” kín nên rạch Cầu Hàn trở thành rạch chết, khô cạn dần.
Cầu Hộc là rạch chảy dưới cầu Hộc, đổ ra rạch Bến Nghé tại quận 5 ngày nay. Rạch đã bị lấp. Trong xóm có cái giếng mà thành giếng bằng gỗ như hình cái khuôn đều đặn nên gọi giếng Hộc. Cầu cạnh giếng nên mang tên trên.
Cầu Khởi là rạch ở vùng Hóc Môn, tp. HCM. Cầu Khởi vốn là cầu khỉ, loại cầu bắc ngang mương, đẽo bằng cây tròn, cây tạp gập ghềnh khó đi.
Cầu Lòn là xóm ở phường Đúc, tp. Huế. Cầu Lòn vì tại khu vực này, từ năm 1908, có giao lộ xe lửa và đường bộ, xe lửa chạy ở trên, người đi bộ đi dưới cầu [7].
Cầu Nổi là bến phà ở Mỹ Lợi, huyện Cần Đước, tỉnh Long An, trên ql. 50. Cầu Nổi vì một đầu cầu tựa vào đất liền, một đầu cầu bắc trên các trụ giữa dòng sông để phà cập vào.
Cầu Sa là lươn (xẽo) ở quận 12, tp. HCM, chảy vào kinh Tham Lương, dài độ 4.500m. Lươn hoặc con lươn là dòng nước nhỏ hẹp như hình con lươn, như con lươn Quyền. Sa là nơi chắn ngang dòng nước để bắt cá.
Cầu Võng là rạch chảy dưới cầu Võng, tp. HCM. Sở dĩ gọi như thế là vì dưới thời Pháp thuộc, đây là chiếc cầu treo, người đi qua, cầu lắc lư như chiếc võng.
Cầu Xáng (năm địa danh) là xóm, chợ, ấp, khu dân cư ở tp. HCM.. Xáng do chữ Pháp chaland (sà lan) vì máy đào kênh đặt trên một sà lan nên người địa phương lấy tên vật này gọi vật kia theo phương thức hoán dụ. Kinh xáng là con kinh do xáng đào và cầu Xáng là chiếc cầu bắc qua con kinh này.
Cầu Xe Lửa là rạch ở quận 12, tp. HCM. Năm 1896-1897, đường sắt Sài Gòn - Hóc Môn được xây dựng cho tàu điện (tramway) hoạt động nên có cầu này và cầu Ga.
3. Số lượng địa danh mang thành tố Cầu khá phong phú, nhất là ở vùng Nam Bộ. Điều này cho biết đây là vùng đất có nhiều sông nước. Cho nên muốn biết văn hóa Nam Bộ, ta không thể không nghiên cứu tên cầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bùi Đức Tịnh, Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ, tp.HCM, Nxb Văn nghệ, 1999.
2.Bùi Thiết, Từ điển Hà Nội: Địa danh, HN, Nxb Văn hóa - Thông tin, 1993.
3.Lê Trung Hoa, Từ điển từ nguyên địa danh Việt Nam, bản đánh máy, chưa xuất bản.
4.Lê Trung Hoa (cb) – Nguyễn Đình Tư, Từ điển địa danh thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, 2003.
5.Nguyễn Khôi, Một số địa danh ở Bắc Bộ, bản viết tay do tác giả gửi tặng.
6.Trương Đình Tưởng (cb), Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình, Nxb Thế giới, 2004.
7.Trần Thanh Tâm, Huỳnh Đình Kết, Địa danh thành phố Huế, HN, Nxb Văn hóa dân tộc, 2001.
8.Võ Nữ Hạnh Trang, Văn hoá qua địa danh Việt ở tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ Văn hoá học, Trường ĐHKHXH-NV, tp. HCM, 2006.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét